Tao đọc mà không muốn nó kết thúc. Căng thẳng hồi hộp quá. Mình cầm súng là tráng sĩ, mình buông súng là nghệ sĩ. Tao nói vậy chắc hơi quá hớp! Thôi mà, có ai trách mình gì đâu phải không mậy. Tao post lên để bạn bè mọi người cùng chia sẻ.
n471
Sau ngày quốc
hận 30-4-1975. Hầu như tất cã Sĩ Quan QLVNCH đều bị lừa bịp bằng danh từ “cãi tạo
tư tưởng” trongmột thời gian nhất định.
Thế rồi, như một đàng trẻ mới lớn, từng đoàn người lũ lượt kéo nhau ra trình diện
để được vào trại cãi tạo tập trung. Trong số đó có chúng tôi, Mai Xuân Cương,
Diệp Phi Hùng và Trần Văn Khỏe cũng rủ nhau vào tù một lượt. Sau gần 3 năm
vất vã trong cảnh lao tù cộng sản, ngày ra tù gần như tuyệt vọng.
Đầu năm 1978
nhóm chúng tôi gồm 6 ngưới có ý định trốn trại trại tù, kế hoạch đi qua khu trại
tù Bù Gia Mập rồi xuyên ranh giới Cambodia, vượt sông Mekong qua vùng Bắc Tam
Bang đến Thái Lan bằng đường bộ. Đây là việc làm rất quan trọng đến sự sống
còn, nên trong nhóm không ai khác hơn ngoài tình 4 chữ TQLC, trong đó có 3
trung đội trưởng của ĐĐ3/TĐ5 là Th/úyTrần
Văn Khỏe, Th/úy Diệp Phi Hùng, Th/úy Mai Xuân Cương. Ba thằng bạn, chúng tôi rất thân với nhau cho dù
bất cứ hoàn cảnh nào.
Khoảng cuối
mùa thu 1978, một người bạn sau cùng trong số 4 đứa ra trường về chung đơn vị đã
bị gục ngã trong hoàn cảnh khốn cùng của traị tù Bù Gia Phúc, thuộc tỉnh Phước
Long, nằm cách ranh giới Cambodia độ trên 10 cây số, đó là Mai Xuân Cương.
Trại tù được
bao quanh bởi 3 hàng rào xây dựng bằng tre Lồ Ô và kẽm gai của QLVNCH để lại, mỗi
hàng cách nhau khoảng 5 tới 10 thước, do chính những tù nhân Công Binh QLVNCH
thực hiện, “phe ta làm hàng rào kiên cố nhốt phe mình”. Bên ngoài hàng rào thứ
3 là những vọng gác cao khoảng độ 10 mét và có vệ binh canh gác hàng đêm
.
Nguyên nhân
đưa đến cái chết Th/úy Mai Xuân Cương.
Tổ chúng tôi
âm thầm chống đối, hầu hết trong tổ toàn dân tác chiến, nhiều lần chúng tôi bị
kiểm điểm là tổ có “khả năng” lao động sản xuất thấp nhất trong đội, nên cả đội,
4 tổ phải chịu hình phạt chung, ngồi mổ xẻ hằng đêm, nhưng rồi vì sự công bình
toàn đội, nên cả tổ chúng tôi bắt đầu làm việc trở lại.
Một hôm,
không nhớ rõ ngày, tháng, vào năm 1976 trại tù Trảng Lớn L3/T4, theo chỉ tiêu
5kg rau mỗi người trong tháng, nên mọi người cố gắng đắp thêm vàì luống rau muống
trên mặt đường trải đá. Tôi Hùng, Cương, Sơn, Lâm… cả tổ đều chia nhau đi tìm đất
mềm để làm thêm luống rau.Tôi lấy đất gần bìa hàng rào, Hùng, Sơn, Cương thay
phiên xuống hầm ếch lấy đất cho lẹ. Gọi hầm ếch, vì như cái hang không chân khổng
lồ, nhìn rất nguy hiểm, đất có thể sụp đổ bất cứ lúc nào, vì mọi người ai cũng
muốn lấy đất mới, nên đã tạo thành cái hố lớn không chân. Tôi cũng xuống hố lấy
vài ky đất và linh cảm cho tôi biết có điều gì không ổn nên tôi leo lên đi tìm
để cào một nơi khác. Hôm đó, Cương đào đất, Sơn kéo, Hùng đổ vào những luống
rau. Được khỏang độ 10 ky thì tôi nghe tiếng rú lên của Sơn: “đất sụp, đất sụp”.
Một khối đất khổng lồ đè lên người Cương, không
nhìn thấy bạn mình đâu hết, chúng tôi ù ra, móc đất tìm bạn kéo lên. Đống
đất dầy cộm, cả đám tay móc, chân cào, đâu độ năm, ba phút, thấy được cái chân
Cương. Chúng tôi mừng rỡ “nó đây rồi, nó đây rồi” Sơn, Hùng và tôi kéo Cương ra
khỏi hầm ếch, rồi đưa lên trên mặt đường.
Lúc bấy giờ
tôi nhìn thây hai mắt Cương trợn trắng, sùi bọt mép ra, thân hình cong như con
tôm, chúng tôi phụ nhau keó thẳng thân người ra, khi phát hiện cột xương sống bị
gãy, bấy giờ mỗi thằng một tay, khiêng bạn chạy thẳng vào bịnh xá của tiểu đoàn
cách đó độ vài trăm thước.
Trời đã sụp tối,
bệnh xá chỉ có vài tên vệ binh được bổ làm y tá, thấy chúng tôi sôn xao tên vệ
binh hỏi “thế anh kia bi gì thế mà đưa vào đây?”Chúng tôi trả lời “báo cáo anh,
bị đất sụp, đè gãy xương sống nhờ anh xem dùm”.Tên vệ binh bảo “bỏ anh đó xuông
rồi các anh trở về trại đi”.Chúng tôi nài nỉ xin họ chích thuốc giảm đau cho bạn
mình, vì thấy Cương quằn quại quá đau.
Tôi không để
ý gì đến khung cảnh chung quanh mà chỉ chú tâm vào Cương thì giật mình nghe bên
kia nhà có tiếng hét la đau đớn, quay sang nhìn thì thấy xe Honda chiếu ngọn
đèn pha thẳng vào trong cái mùng xanh
màu nhà binh, bấy giờ tôi trố mắt nhìn kỹ xem việc gì, thì ra một tên bộ đội y
tá cầm cây cưa sắt đang cưa cáí chân cuả một bạn tù, đi lao động cuốc trúng một
đầu đạn M79 khi sáng, cả đám nhìn nhau lắc đầu, lúc đó tên bộ đội chĩa súng vào
chúng tôi quát lớn bắt chúng tôi phải trở về phòng ngay! Biết làm sao bây giờ,
đành lủi thủi ra về, bỏ lại bạn mình nằm quằn quại ngoài hiên không một liều
thuốc trị.
Vài tuần sau
khi Cương trở về, đi đứng như một thằng GÙ Nhà Thờ Đức Bà và kể lại:
-ĐM, tụi nó
đâu có thuốc gì mà chích, mà cho…Biết cái đéo gì mà trị. Mỗi khi tao bị lên cơn
sốt thì thuốc “KÝ NINH” và khi đau quá kêu la thì tụi nó cho liều thuốc “KHẮC
PHỤC”, ráng chịu “đau rồi sẽ qua”.
Vừa kể, Cương
vừa vấn điếu thuốc rê, nói thuốc rê cho sang chứ thực sự toàn là râu bắp nhúng
nước thuốc lào, đem sấy khô hút cho đỡ thèm. Cương hỏi tôi:
- Khỏe, mày
còn nhớ mấy sĩ quan Võ Bị khóa 29 hay 30 gì đó không? Họ tốt nghiệp trên đường
di tản, về TQLC rồi đi theo thực tập với mày không? Thằng Hải, cái đêm mà tụi
mày khiêng tao lên bệnh xá, thì nó đang bị cưa cái chân trong mùng. Nghe tụi
mình gọi tên nhau nó nhớ tên mày và hỏi tao mới biết ra phe ta, cùng là Mũ
Xanh.Tội nghiệp nó bị cụt một chân, đui một con mắt vì cuốc trúng vào đầu trái
M79.
Sau này, vì
Cương bị sốt rét, đi tiểu bị té nứt khớp xương sống, tủy sống chảy ra, đó là
nguyên nhân đưa tới cái chết của ngườì đồng đội, đồng tù: Th/Úy Mai Xuân Cương
.
Nhiều lúc ngồi
một mình, suy nghĩ vu vơ, nhớ chuyện này rồi sang chuyện khác. Đôi lúc tôi nghĩ
số tôi lận đận nhưng gặp nhiều may mắn. Ngày đó, nếu Cương không chết và ba người
bạn vẫn quyết định trốn tù theo dự tính lúc ban đầu thì số phần chúng tôi chưa
biết sẽ như thế nào? Có lẽbỏ thây trong rừng sâu, một nơi nào đó trên đất
Cambuchia, hay bị chặt đầu vì đám quân Bôn Bót. Sau khi Cương chết, tôi nghĩ đến
hướng khác, đổi hướng “tiến về Saigon”
Tôi bí mật viết
thư gởi về gia đình làm giây tờ giả. Tội nghiệp má tôi khi nhận được thư, nghe
tôi có ý định trốn trại, bà rất lo lắng vô cùng nhưng cũng chìều tôi, bà nói ra
cho em trai tôi biết, thằng em cũng đồng ý, vì đã 4 năm rồi mà vẫn chưa có ngày
về. Bà hỏi tiền đâu mua giấy tờ giả trong lúc không có cơm ăn?
Thằng em lanh
lẹ trả lời:
-Thẻ công
nhân của con, gỡ hình ra dán hình ảnh vô, rồi vô hãng chôm giấy phép, chuyện nhỏ.
Còn chuyện lớn là ảnh trốn có được an toàn hay không thôi”.
Vài ngày sau,
nó tìm đâu ra tấm hình thẻ học sinh của tôi dán vào thẻ công nhân của nó, rồi
đưa cho má tôi kèm theo tấm giấy phép để trống.
Lúc bấy giờ,
tình hình thay đổi, chuyển trại giải giao tù về Hàm Tân, Suối Máu, Chí Hòa cho
bộ Công An quản lý, tù nhân trốn trại bắt được xử bắn tại chổ.
Mới cách đó một
hai tuần, trại kế bên đã bắn làm gương một bạn tù trốn trại, treo hàng rào để tới
thối mới được chôn.
Nhớlúc tổ tôi
trực làm anh nuôi, đem cháo vào nuôi 2 bạn trốn tù không may bị bắt lại, trước khi
chưa được 3 năm, bị đánh đập đến nổi một thằng thì con mắt lòi ra đày máu, còn
một đứa thì gãy cánh be sườn chỉa ra ngoài một khúc, hai chân bị cùm trên đôi
thanh gổ, thoi thóp trong cái chòi tôn nhỏ xíu, tiếng nói thều thào củaThời còn
văng vẵng bên tai “đợt cháo tới cho xin chút đường” thấy bạn nằm thiếp tôi nhận
lời sẽ cố gắng, trong khi được lệnh lon chao trắng cho cã 2 thằng.
Quá thương bạn,hôm
sau tôi làm liều một chuyến, bỏ thẻ đường dưới đáy lon Guigoz rồi đỗ lên lớp
cháo.
Như đã đón được
việc làm của tôi tên vệ binh chận lại hỏi:
-Thế, anh đem
gì cho chúng nó hôm nay?
Tôi đáp lại:
-Báo cáo anh,
đem cháo trắng cho hai anh ấy.
Vệ binh:
-ĐM.. mấy thằng
phản động mà gọi bằng anh, tớ đập bỏ mẹ bây giờ.
Rồi hắn đi thẳng
ra ngoài sân nhà, bẻ nhánh cây khô thọt vào lon Guigoz cháo tôi đang cầm quậy
lên, thấy cục đường vàng khè dưới đáy quét văng ra ngoài, rồi lấy khẩu AK50
quay báng súng định đập vào mặt tôi.
Nhưng rồi
không hiểu hắn nghỉ sao, bỏ súng xuống. Nếu không chắc giờ đây miệng tôi ăn toàn răng
giã.
Việc thăm
nuôi trở nên khó khăn hơn trước. Thân nhân thăm nuôi bị khám sét rất kỷ lưỡng,
đám vệ binh lợi dụng việc này tha hồ khám sét mò dưới…, bóp trên, vợ hay em gái
tù nhân lên thăm. Má tôi phải can đảm và vất vả lắm mới đem được giấy tờ cho
tôi.Tôi hỏi má tôi có bị tụi vệ binh mò không?Bà trã lời tao già nó chê, chỉ mò
mấy đứa nhỏ thôi, tụi nhỏ nó la, khóc um trời.
Mẹ con nói với
nhau qua loa vai câu chuyện, trời đã tối, tôi trở về trai, đổ lon Guigoz mắm ruốc
ra, tôi ứa nước mắt khi nhìn cuộn giấy được bao thật kỹ trong bịch nylon, cũng
may là tụi vệ binh không bắt đổ ra khám
xét. Phần tôi đã xong, tôi hỏi Niên người bạn “Kình Ngư, Phạm Bá Niên”
anh trả lời xong xuôi một ngày cơm vắt. Thế là dự trù 6 người lúc ban đầu thì 1
chết (Cương), lạnh cẳng 3, chỉ còn 2 là tôi và Niên.
Kế hoạch vẫn
thực hiện, nhưng chưa quyết định ngày giờ xuất phát.Lúc này còn lại tôi và Niên
hằng đêm bí mật bàn thảo kế hoạch.Đêm thì thầm cuối cùng là đêm 18-6-1979. Hai
thằng nhìn nhau nắm chặt tay trong quyết đình cuối cùng. Có thể, trong đêm mai
ngày 19-6-1979 ngày thành lập quân lực VNCH cũng là ngày giỗ của 2 thằng, dẫu
sao ngày này gia đình chúng tôi cũng dể nhớ.Sống chết lúc này, dường như với
tôi không thiết tha nửa.
Ngày hôm sau
tôi chuẩn bị những đồ cần thiết để rời tuyến xuất phát đúng 9 giờ đêm, sau khi
tiếng kẻng vang lên tới giờ đi ngủ.
Theo kế hoạch,
khi kẻng 9 giờ đêm, tôi dậm chân tại chỗ. Niên sẽ đến bắt tay để rời tuyến xuất
phát. Như cảm giác của giây phút đầu mỗi
lần trước khi đụng trận trong mùa Hè Đỏ Lửa 1972, tim tôi đập mạnh, người lạnh
run, trong khoảng 5-10 giây. Năm phút hồi họp chờ đợi đã qua, Niên vẫn chưa đến
tôi suy nghĩ có lẽ hắn lại đổi ý rồi. Tôi tiếp tục xem đồng hồ, khi tiếng ồn ào
trong láng bắt đầu lắng dịu thì Kình Ngư xuất hiện kéo giò Hắc Long. Tôi vội
kéo tấm mền giầy cộm làm bằng bao cát phủ lên chiếc gối dài, rồi chui ra khỏi
láng, thấy Niên đang núp chờ tôi ngoài cửa chòi.
Giây phút định
mệnh đã đến, giây phút hồi hộp chờ đợi đã qua, lúc nầy tim tôi gần như đều hòa
trở lại để đương đầu với giây phút thập tử nhất sanh. Hai thằng tôi lần lượt đi
lòn qua từng láng, trong lúc tiếng xì xào sắp bắt đầu im lặng, cũng là lúc cán
bộ cai tù đi kiểm soát.
Qua khỏi láng
cuối cùng một khoảng độ vài mươi thước, thì đụng lớp hàng rào thứ nhất, dễ dàng
vạch kẽ hở của hàng tre Lồ ô chui qua.Kế tới là hàng thứ hai hơi khó, những
cánh Lô ô còn chưa siêu vẹo, cuối cùng cũng cố lòn lách chui qua được.Lúc này
ngoài trời tối đen như mực, cả doanh trại dường như hoàn toàn yên lặng khi tôi
quay đầu nhìn lại để lắng nghe.
Lớp hàng rào
thứ 3 là vấn đề trở ngại lớn, Niên ra dấu hiệu hỏi ý tôi nên đi hướng nào? Theo
dự trù thì hướng phía trước mặt là đường xe chạy thì dễ dàng hơn, nhưng tôi quyết
định đổi hướng, chỉ thẳng vào vọng gác, “nhứt chín nhì bù”.
Theo kinh nghiệm
chiến trường, nơi nào khó thì chỗ đó tương đối an toàn, giờ đó mới quá 9 giờ
đêm, vệ binh chắc chưa ra vọng gác. Cả hai đồng ý bò thẳng về hướng vọng gác gần
tới chân hàng rào, dừng lại nghe ngóng, quan sát, chúng tôi nhìn thẳng lên vọng
gác đâu chừng 5 phút xem có động tĩnh gì trên đó không. Quả như điều tôi đoán,
chưa thấy tên vệ binh nào ra gác giờ này. Tới chân hàng rào thứ ba, cao độ chừng
3 mét bên trên là 3 lớp kẽm gai chồng lên như hình tam giác, dưới chân thì dầy
đặc kẽm gai, không cách nào chui qua lọt được. Vừa suy nghĩ tìm cách đối phó, vừa
lầm thầm chưởi thề..quân ta làm hàng rào nhốt quân bạn kỹ quá, giá ngày xưa…
rào kỹ như vầy thì đỡ biết mấy.
Niên và tôi mỗi
thằng cố tìm cách bám vếu để leo lên đỉnh hang rào, tránh động tĩnh tối đa,
không thằng nào lên được. Cuối cùng, tôi quyết định ngồi xuống để đưa Niên lên
bằng hai vai của mình, khi bám được vòng kẽm gai trên cùng, Niên từ từ tìm kẻ hở
chui qua, đeo lung lẳng trên 3 vòng kẽm gai, độ vài phút sau tôi thấy Niên xuống
tới chân bên kia hàng rào. Qua được một thằng rồi, còn tôi làm sao tôi trèo qua
đây?Thì bên kia Niên cố gắng banh kẽm gai chui vào đưa 2 cánh tay chịu trên kẽm
như một nấc thang cho tôi bước lên, không cách nào khác tôi đành đạp lên tay
Niên cố gắng hết sức mình để đu lên vòng kẽm, cũng may tôi nắm được vòng đầu rồi
đu lên, lúc này tôi nhớ đến leo lưới trong quân trường lần đầu tiên có cơ hội
thực tập và cũng là lần cuối của đời tôi, đu tòn teng như nhện, khi lòn qua gần
hết kẽm tôi vội vàng buông tay nhảy xuống, vòng ngòai cho lẹ, nhưng lưng quần
tôi còn vướng móc kẽm gai kéo tôi ngược lại lơ lửng giửa chừng. Tiếng lồ-ô đổ
gãy kêu răng-rắc.Niên vội vàng chạy tới đỡ tôi bước xuống.
Thật may mắn
cho 2 thằng tôi, giả sử có vệ binh canh gác đêm đó thì 2 thằng tôi đã ra người
thiên cổ. Ngồi xuống lấy lại bình tĩnh, định lại vị trí rồi bắt đầu tìm lối ra,
gai mắc cở chằng chịt mọc trộn lẩn trong đám tranh khô, mỗi bước đi chúng tôi tạo
nên từng tiếng kêu xào xạc. Bọn vê binh thường hay bắn “la fan” vào nơi có tiếng
động ban đêm may ra chết được heo rừng. Tôi nhớ có lần tôi làm “anh nuôi” cùng
một thằng bạn qua khu vê binh ăn trộm mướp, dưa leo vì quen đường đi lối về nên
an toàn trở lại. Nửa giờ sau, tiếng AK nổ vang rền, tiếng vệ binh la inh ỏi heo
rừng, heo rừng lọt vào giếng cạn, tên vệ binh chỉa đèn pin xuống giếng định bắn
thì nghe tiếng la đừng bắn tôi …tôi
không phải heo rừng, thì ra là thằng tù đói như tôi cũng đi ăn trộm
nhưng không thuộc đường nên bị băt và đánh bầm dập cả đêm nhưng thoát chết.
Kinh nghiệm
đó, Niên và tôi lần mò tường bước một, có lúc phải bò thật chậm hay lom khom bước
đi từng chặng một.Mất khoảng gần 2 tiếng đồng hồ để vượt khỏi đám tranh dài chừng
200m.
Ra tới mặt đường xe chạy, theo kế hoạch dự trù là đi qua đường tiến thẳng
vào rừng độ chừng 20m, quẹo trái, cập dọc theo lề đường đi độ chừng hơn cây số,
qua khỏi bộ chỉ huy Trung Đoàn, mới ra đường lộ. Lúc này chúng tôi làm theo kế
hoach vạch sẳn, qua đường lần theo con đường nhỏ mà đi. Hai thằng yên lặng lần
mò đi được hơn nửa giờ, tôi có linh cảm dường như bị lạc, nếu đúng đường thì có
lẽ đã qua khỏi vọng gác Trung Đoàn, nhưng con đường mòn này dẫn xuống chân đồi,
ẩm ướt và sương mù.
Tôi bảo Niên
tụi mình bị lạc rồi, bẻ góc 90 độ, đi lên. Hai thằng đồng ý chuyển hương đi, trời
tối đen, bàn tay đưa ra không thấy ngón, đi được khoảng 20 phút, tôi thấy đàng
xa dường như có ánh đèn dầu. Kéo Niên ngồi xuống định lại hướng, thì ra ngọn
đèn dầu thấp sáng loe lóe trong căn nhà thăm nuôi, bên cạnh vọng gác của Bộ Chỉ
Huy Trung Đoàn, nếu không nhờ ngọn đèn dầu của căn nhà thăm nuôi đêm đó, thì
hai thằng tôi đi vào ngay họng súng của
vệ binh trước cửa cổng Trung Đoàn.
Định được điểm
đứng trọng yếu, không dám tiến sâu vào rừng nữa, chỉ lùi vào một chút rồi tiép
tục hướng Ngã Ba Đường 10 mà đi, được một đoạn hơi xa Trung Đoàn, rồi lần mò trở
ra đường xe chạy. Tới được “Ngã Ba Đường 10” khoảng 12 giờ đêm. Đã 3 giờ đồng hồ
mà đi chỉ được hơn 3 cây số, chúng tôi bằng mọi cách phải đi tới cầu Sông Bé
đúng 6 giờ sáng, khi vệ binh gác cầu rời vọng gác vào tập thể dục, lợi dụng cơ
hội này để qua cầu. Đoạn đương nay độ vài mươi cây số.Niên và tôi bắt đâu bám
đuôi nhau, đi như chạy khoảng 10km, đứng lại nghỉ mệt, Niên đề nghị:
-Nếu hai thằng
bám đuôi nhau thế nầy thì nguy hiểm, bây giờ một thằng đi trước, thằng sau độ
10 mét, nếu có bị bắn hy vọng có thằng chạy được vì ban đêm bọn nó không biết
mình đi mấy người.
Chúng tôi “oẳn
tù tì”, ai thua đi trước và Niên đã thua, Niên bảo nếu có gì nghi ngờ thì Niên
sẽ đưa tay ra sau xoay tròn. Mật hiệu đã xong, Niên vội vàng lên đi trước. Lầm
lũi đi trong bóng đêm, được thêm vài giờ nữa, ra tới quán “BA CÔ” lúc này tôi độ
chừng 4 giờ sáng, trời bắt đầu bớt tối dần, khoảng cách chúng tôi càng xa, chỉ
bám nhau theo mật hiệu mà thôi. Đi thêm đoạn nữa, thì bắt đầu đoạn dốc đồi thật
cao, tới đây chúng tôi đã biết được khi đổ dốc là sẽ tới gần cầu “Sông Bé”.
Đang miên man nghĩ đến những đều may mắn, trời thương không mưa, không một toán
vệ binh gác đường thì Niên đã lên tới đỉnh đồi cao, tôi còn chưa được nửa đồi,
bổng thấy có dấu hiệu khác thường, tay Niên đưa ra sau lưng xoay tròn, tôi giật
mình chạy nhanh vào lề đồi núp vào lùm cây, quan sát. Dường như có tiếng đối
thoại nhưng không nghe rõ vì một đoạn quá xa, hơn nữa trời lúc này vẫn hơi tối.
Chừng một lúc, tôi thấy Niên đi trở lại bình thường rồi biến mất đi khi xuống
bên kia dốc đồi.
Tôi đoán chắc
là có chướng ngại vật, nhưng không biết là cái gì.Phải đành chui ra bước lên.Đã
lên lưng cọp rồi phải cố điều khiển nó mà thôi, tôi lấy lại bình tỉnh, bước đi
lên đồi.
Khi tới đỉnh
thì bỗng dưng có tiếng quát to từ phiá bên kia đường:
-Anh kia làm
gì, đi đâu sớm thế?
Một giọng nói
gần như quen thuộc hàng ngày của những vệ
binh, hay cán bộ cai tù. Tôi giật mình quay sang, thấy tên bộ đội với khẩu AK50
chỉa thẳng vào người tôi. Lúc này, không hiểu sao tôi bình tĩnh như chưa bao giờ
hết.
Tôi trả lời
như người một công nhân bình thường chẳng sợ sệt gì:
-Trời đất ơi,
anh làm tôi hết hồn. Tôi là công nhân ở thành phố HCM lên thăm ông anh trong trại
cải tạo, vì không nghỉ phép được lâu nên phải đi về sớm ra Phước Bình đón chuyến
xe đầu về thành phố.
Tên bộ đội gằn
giọng trả lời:
-Thế à! Vậy
anh đi cẩn thận xuống dốc đồi, kẻo bá vào chiếc xe tôi lật nằm dưới đấy nhé, đi
đi .
Cũng may tên
này không phải là vệ binh gác tù, tôi gần như thoát nạn, trả lời “vâng, cám ơn
anh báo trước”, rồi tiếp tục xuống đồi, tôi nhìn thấy chiếc xe MotoLova nằm lật
ngang bên lề bên phải, thì ra vì trận mưa lớn sáng hôm qua.
Tôi nhớ lại,
cũng tại chỗ dốc này cách đây 2 năm, khi được chuyển tới khu vực này, chiếc xe
chở đám tù chúng tôi cũng đã nhiều lần muốn lật ngang vì ngọn dốc quá cao, thêm
vào là đường mưa trơn trợt. Thật hú hồn, nếu một trong 2 thằng trả lời không
xuông xẻ, giờ này có lẽ không còn có dịp viết lại chuyến trốn trại tù.
Xuống tới
chân đồi, trời gần sáng hẳn, đã thấy Niên chờ sẵn bên cạnh bìa rừng, rồi 2 thằng
mò xuống con suối nhỏ gần đó để rửa sạch những dấu vết bám đày xình, đất đỏ
trên quần áo. Tôi thay chiếc áo tay ngắn Kaki vàng cũ kỹ, chiếc áo này tôi lượm
nó trong lúc làm vệ sinh dọn dẹp khi vừa chuyển tới trại Trảng Lớn cách đây 4
năm, mặc rất vừa vặn nên tôi giữ kỹ nó như một món đồ quí giá. Rửa tay chân sạch
sẽ, chúng tôi trở ra đường, quan sát cái chòi gác của vệ binh bên này cầu Sông
Bé, hai thằng nhìn thật kỹ, không thấy tên vê binh nào còn gác, vì trời đã
sáng.
Đợi Niên đi một
đoạn hơi xa độ chừng 200 mét, tôi bắt đầu nối gót theo sau. Khi tôi đến ngay vọng
gác, thì lúc đó Niên đã nửa đoạn cầu.Nhìn xuống đáy cầu sâu thâm thẩm, không
cách nào qua được nếu không liều lĩnh bước đi trên cầu. Lúc trời sáng, tôi càng
sợ hơn, sợ khi phát giác chúng tôi trốn trại. Trung Đoàn cho vệ binh đuổi theo
bằng xe Jeep để chận ngoài bến xe Phước Bình, hoặc thấy chúng tôi trên đường là
bị bắt ngay. Tôi muốn chạy thật nhanh cho qua khỏi đọan cầu dài mấy trăm thước
này, cũng ước gì nếu có phép thì tôi sẽ biến ngay cho khỏi chổ này, vừa đi vừa
lầm thầm khấn nguyện.
Niên đã qua tới
phía đầu bên kia, trong khi tôi mới nửa đoạn cầu, bước nhanh hơn nhưng không để
lộ nỗi sợ hãi của mình, cũng may vì còn quá sớm không một chiếc xe nào qua lại
lúc này .Qua xong cây cầu Sông Bé, lại đối diện với cái dốc cao, con dốc cong
quẹo trước khi đến bến xe Phước Bình. Niên chui vào bìa rừng bên phải đợi.Tôi
lên tới ngồi nghỉỉ một lác cho tỉnh, vì quá mệt. Không dám nghỉ lâu, chừng năm ba phút rồi tiếp
tục ra đường bước tiếp, chừng một đoạn không xa, dường như có tiếng xe từ phía cầu
chạy lên tôi ra hiệu chạy nhanh vào góc mô bên trái có vài nhánh cây đủ che
thân cho 2 thằng. Quả thật là may cho hai thằng, nếu xe này chạy trước nửa giờ,
thi chúng tôi không biết phải đố phó ra sao? Trên xe có ba người, hai cán bộ và
tài xế, xe chạy lên dốc rồi thẳng hướng PHƯỚC BÌNH.
Bọn tôi phóng
ra đi tiếp, lên khỏi dốc núi thì con đường trở nên rộng hơn, đi hướng về bến xe
Phước Bình, mắt nhắm, bụng đói, miệng khác nước, nhưng chân vẫn bước đi như chạy.
Tới ngã ba đường đi Bù Đăng, Bù Đốp, cách bến xe Phước Bình vài trăm mét, nhìn
thấy một đám bò vàng (danh từ của đám tù gọi bộ đội và CA) đứng đầy bến xe. Kế
hoạch A không thể thực hiện được thì kế hoạch B thi hành, đoạn đường dài nguy
hiểm hơn, qua Bù Đăng, Bù Đốp về Lộc Ninh, xuống Bình Long, rồi Bến Cát, Bình
Dương, xong tới Saigon”.
Quá khát nước,
mệt lả người, chân không ngừng bước, may thay có vài người Thượng vác gùi đi
ngược đường, thấy vài khúc mía lau bên trong. Tôi móc túi ra chừng 5, 10$ gì đó
rồi ra dấu muốn mua.Như thấy tôi mệt lả, một trong số người Thượng đứng lại đưa
2 khúc mia, lấy tiền rồi bỏ đi.Như được cứu tinh, vừa đi hai thằng cắn, xướt 2
khúc mía ngon lành gần như tỉnh hẳn lại, đường đi Bù Đốp trên 10Km.
Lang thang
trên đường độ vài cây số, có tiếng xe lam từ sau chạy tới, quá mệt, tôi đứng lại
đón xe, xin đi Bù Đốp, thấy trên xe lam đã có bốn, năm người. Xe dừng lại, Niên
và tôi nhảy lên. Ngồi chưa nóng đít, một tóan du kích chận xe lại trên đường,
xét giấy tờ. Hai thằng nhìn nhau tái mặt, nhưng cũng phải bình tĩnh.Tên du kích
bắt đầu hỏi giấy tờ, Tôi ngồi ngoài bên trái, Niên bên phải. Du Kích hỏi tôi:
-Anh này cho
tôi xem giấy tờ tùy thân.
Tôi lấy trong
túi ra 1 thẻ công nhân của em tôi làm giả và 1 giấy phép được nghỉ 3 ngày.Tên
du kích xem thẻ công nhân, rồi qua tới tờ giấy phép.Tôi thấy hình như tên này
không biết chữ, cứ lật ngược, rồi lật xuôi, lật qua lật lại, rồi hắn nói:
-Thế giấy
phép của anh hết hạn rồi, sao giờ này còn đây?
Tôi giật
mình, thoáng nghĩ không lẽ mình ghi lộn ngày? Mới vưa điền vào khoảng trống chiều
hôm qua trước khi vượt trại. Tôi bình tĩnh trả lời:
-Đâu anh coi
kỹ lại xem, giấy phép tới hết ngày mai mà”
Du kích lật
giấy qua lại vài lần nữa rồi gật đầu trả giấy lại cho tôi, rồi lần lượt hỏi giấy
tới Niên. Khi nghe Niên nói giọng Huế, tôi nghe tên du kích hỏi Niên:
-Anh từ Huế
vào à? Sao giấy đi đường là của quận Phú Nhuận?”
Niên trả lời,
tôi không nhớ rõ như thế nào, cuối cùng hai thằng thoát nạn một lần nữa, tới được
Bù Đốp. Vào trong chợ Bù Đốp, thấy gánh mì mừng quá ngồi xuống gọi 2 tô mì lớn,
định ăn mỗi thằng một tô cho no nê rồi tính.
Đang ngồi chờ
mì, tôi hỏi bà bán mì:
-Bác! Bác! Có
xe nào từ đây tới chiều về Lộc Ninh không? “
Bả chỉ vào
chiêc xe như chiếc “Dodge”, người bu như kiến trên đó và nói:
-Mỗi ngày chỉ
có một chuyến thôi. Nếu không đi được phải chờ tới ngày mai.”
Hai thằng giật
mình, vội vàng trả tiền 2 tô mì chưa ăn, chạy thẳng ra xe, bon chen, cố bám lấy
sườn xe cho được. Giành giực với nhau một hồi, tôi bám được một chân đứng trên
xe, một tay nắm vào cái thanh sắt trên mui xe, còn Niên hắn hay thiệt, chen lấn
ngồi trên nóc mui xe. Hai thằng nhìn nhau như yên tâm vì không đứa nào lọt lại nơi này đêm nay.
Xe bắt đầu chạy
khoảng hơn 12 giờ trưa.Tới Lộc Ninh hơn một giờ.Không trạm kiểm soát nào.Về tới
Lộc Ninh mua tạm bánh mì ăn lót bụng. Đi chung quá nguy hiểm, quyết định chia
tay từ đây, tại Lộc Ninh tôi hỏi thăm dò, thì biết được từ Lộc Ninh về Bình
Long có một trạm kiểm soát “Bò Vàng”. Từ Bình Long về Bình Dương có trạm kiểm
soát lớn tại Bến Cát. Chia tay nhau mỗi thằng một ngả, hồn ai nấy giữ. Lang
thang qua lại bến xe đò mấy lần thăm hỏi, muốn mua vé xe đò lúc này phải có giấy
đi đường, tôi chỉ có giấy phép, không giấy đi đường, đành đi xe chuyền từng chặng.
Thế là tiếp tục
lội bộ ra đường xe rồi tìm cách quá giang. Vài chiếc xe hàng chạy qua tôi đưa
tay xin quá giang, cũng may có một chiếc xe ngừng lại. Tôi thấy trên đó 5, 7
tên bộ đội gì đó. Lúc đó không cách nào khác tôi chạy đến trèo lên xe, mới biết
ra là đám bộ đội trẻ rủ nhau trốn đơn vị về Bình Long chơi, không khác gì mình
ngày xưa, lúc ngoài chiến trường Quảng
Trị nhảy dù đi Huế.
Tôi bắt đầu
trò chuyên làm quen, có đôi lúc hỏi dò trạm kiểm soát, nhưng không để lộ vẻ sợ
hãi vì tôi là công nhân mà. Tôi làm bộ hỏi tên bộ đội:
-Mấy anh qua
trạm kiểm soát có phải trình giấy phép không?”
Vài tên trong
đám bộ đội nói:
-ĐM..sợ đếch
gì bọn Công An áo vàng này.
Tôi biết được
điểm này có thể dùng được lúc này. Gần tới Bình Long, đằng trước tất cả xuống
xe từng người qua trạm kiểm soát trình giấy tờ. Xe hàng chở đám bộ đội và tôi
cũng dừng lại, xuống xe đi bộ qua để trình giấy. Thấy toàn Công An, không có kiểm
soát quân sự, cũng như trước đây Cảnh Sát mà không có Quân Cảnh làm sao lính sợ,
nhanh trí tôi vội vàng kéo chiếc áo kaki xanh cất trong bị khoác vào, cộng thêm
cái nón bo màu xanh giống như đám bộ đội, rồi chui vào cùng bước chung với đám
bộ đội trẻ. Đi tới trạm, bọn bộ đội hiên ngang không vào lối kiểm soát, mà lại
dòm mấy tên Công An cười, cười như thách thức bọn tao đi chơi làm gì nhau.Tôi
cũng làm y chang như đám bộ đội không trình giấy tờ, cũng cười mà đi.Qua xong
trạm này, thật hú hồn như có ơn phước, nhờ gặp phải đám bộ đội nghĩa vụ trẻ
này.Về tới Binh Long độ 3 giờ chiều. Tôi xuống xe, ghé vào xe nước mía bên lề.
Thấy ly nước mía lạnh, vì quá khát nước tôi nốc vào quá nhanh, toàn thân xây xẩm,
mắt tối đen không đứng vững, tôi té quỵ trên đường.
Người bán nước
chạy ra đỡ tôi đứng dậy và hỏi: -Cậu có sao không? Có sao không?
Tôi trả lời:
-Dạ cháu
không sao, chỉ chóng mặt chút thôi, bác à cháu muốn về Binh Dương, giờ này có
xe nào chạy không bác?”
Bà dòn dã trả
lời:
-Quá 3 giờ
thì làm gì có xe về Bình Dương, may ra cậu ra ngã ba Bình Long đón xe chở hàng.
Bằng mọi giá
phải rời khỏi khu vực này ngay, vì hơn 4 năm cách ly thế giới bên ngoài thấy gì
cũng hoài nghi và lo sợ.Tiếp tục cuốc bộ ra ngã ba Bình Long. Đón xe hàng với nổi
buồn tuyệt vọng, tôi nghĩ hôm nay nếu không đón được xe về Bình Dương chắc là
phải ngủ lại ngoài rừng. Trong túi còn 30 đồng, may ra đủ để trang trải tiền xe
tới Saigon. Đang lang thang trong nỗi phập phòng lo sợ, thấy chiếc xe hàng lù
lù từ phía xa, tôi vội vàng đưa tay ra đón, xe từ từ ngừng lại, tôi vội vàng ngỏ
lời xin trả tiền quá giang. Thấy trên cabin chỉ có 2 người, cha làm tài xế, thằng
con độ khoảng 13 theo phụ. Thằng con hỏi tôi, anh đi đâu? Tôi đáp TP HCM.Thằng
nhỏ nói “không được, tôi chở anh tới Binh Dương thôi, 15 đồng “.Tôi cũng đồng
ý, khi tới Binh Dương rồi tính tiếp.
Trả tiền
xong, nhảy lên phía sau thùng xe, thấy một người đã ngồi trên đó, tuổi chạc
ngang tôi, gật đầu chào rồi nhìn nhau yên lặng. Thấy một đống củi khô nằm chồng
lên những bành cao su thật lớn.Xe chạy được một đoan khá dài. Thấy thằng con từ
cabin chui vào trong thùng xe phía sau. Rồi ì ạch kéo những bành cao su, thấy em nhỏ làm, tôi hiểu ý, kéo phụ những
bành cao su lớn, sắp xếp củi lại bỏ dưới đáy, xong phủ lại lớp cao su. Xong rồi,
em mở lời:
-Xe này là xe
hàng quốc doanh cao su không được chở bất cứ gì khác.Ba em lén mua một số củi lậu
về bán kiếm thêm. Dưới Bến Cát có tram kiểm soát lớn phải tim cách dấu đi. Em sẽ
nói ba em chở anh về thành phố mà không lấy tiên thêm.
Nói xong, thằng
nhỏ leo trở về phía trước, tôi thì mừng rỡ, nhưng khi ghe tới trạm kiểm soát lớn
tôi như tái mặt, cũng phải bình tỉnh và phó thác cho định mệnh. Xe chạy thêm
hơn nửa giờ, bổng nhiên chậm bớt tốc độ, tôi quay đầu nhìn ra phía trước thấy
hơn nửa cây số xe đò, xe hàng, nối đuôi chờ qua tram kiểm soát. Xe chở hàng của
tôi đang ngồi, khi chạy tơi chiếc xe cuối cùng đang nối đuôi chờ đợi, lại không
ngừng, mà ra giửa lộ chầm chậm chạy thẳng tới trạm kiểm soát rồi dừng lại.
Thằng nhỏ
nhanh giò nhảy xuống xe, mời tên công an lên xét. Thì ra đây là xe quốc doanh
được quyền ưu tiên không phải chờ đợi như
những xe hàng tư nhân. Tên công an trèo lên thùng xe kiểm soát, hắn thấy
tôi và người khách lạ trên xe, hắn nhìn thẳng vào tôi, nhưng không hỏi giấy tờ,
phản ứng bình tĩnh, tôi mỉm cười lấy lệ. Thấy những bành cao su ngay hàng thẳng
lối, không chút khả nghi, hắn bước xuống rồi gọi thằng nhỏ:“Mày chở khách lấy
tiền phải không?”
Thằng nhỏ liền
miệng:
-Không,
không, thấy người đi bộ, cho có giang về nhà, chứ tiền bạc gì đâu, không tin
chú hỏi đi.
Công An không
tin lời thằng nhỏ nói:
-Tao biết cha
con mày chở khách lấy tiền, nhưng tao tha cho lần này đấy nhé, đi đi.
Thằng nhỏ
cũng cố cãi lại:
-Đâu có, đâu
có”. Rồi nó phóng thẳng lên cabin ra hiệu cho ba nó giọt lẹ.
Trên xe tôi
thở phào nhẹ nhỏm, thế là số tôi quá lớn, 4 lần đều gặp may thoát chết. Tới
Binh Dương, người khách kia xuống xe, còn tôi được xe chở thẳng về cầu Bình Triệu.
Tới Bình Triệu khoảng độ 7 giờ tối, xe cộ, người đi tấp nập. Như chim được sổ lổng,
còn 15 đồng tôi đi bộ tới lui, không dám vào tiệm, sợ không đủ tiền. Thấy gánh
cơm bên lề, tôi gọi một dĩa cơm thịt kho, hột vịt thêm vài miếng cải chua, kèm
theo ly trà đá.Hơn bốn năm, chưa bao giờ có được bữa ăn ngon như vậy. Ngồi ăn,
nhớ tới Niên, không biết bạn mình ra sao?Làm sao qua khỏi những trạm gác lớn
này? Chúng tôi mất liên lạc với nhau từ đó..
Ăn xong, rồi
đi về đâu? Nhà không dám về, vợ con đã vượt biên tới ÚC .Tôi nghỉ tới bà ngoại
bên vợ đang ở cầu Gò Dưa, lội bộ tiếp cầu Gò Dưa đoạn đường này là chuyện nhỏ.Liên
lạc lén lút với gia đình tôi kể từ đó. Sống lang thang nhà thân nhân, bạn bè mỗi
chỗ một, hai tuần, đi sớm, về trể hàng
đêm. Sau vài tháng, quen cách sống bình dân, liên lạc được một số bạn bè cũ, biết
được Phan Văn Đuông cũng lỳ đòn, trốn trại tù như tôi nên tìm nhau để dựa lưng
vào nhau, có tình đồng đội thì dù tiền tuyến hay hậu phương, dù trong lòng địch
thì chúng tôi vẫn thấy an tâm hơn.
Len lỏi sống
qua ngày, Phan Văn Đuông thi bơm hộp quẹt ga ở chợ Sai Gòn, tôi vá xe đạp khu Hải
Quân Công Xưởng, có lúc giúp em của Đuông ở quán bia hơi, khi bán ế, thì è nhau
3 thằng cụng ly say, xỉn, rồi mỗi người lại tìm đường sống trong cái chết,
Đuông vươt biên thì tôi vượt biển, sau 3 lần mới thoát vào cuối tháng 10 năm
1980. Niên và tôi, hai thằng đều may mắn đến được bến bờ Tự Do vào thập niên
80. Sau này khi gặp lại nhau bên Mỹ, tôi hỏi Niên về việc đi qua 2 trạm gác thì
mới biết Niên phải xuống xe, đi vòng qua trạm gác, thuê xe đạp xe ôm nên Niên về
tới Saigon sau tôi một ngày. Ôi thôi cực khổ gian nguy, sau bao lần thoát chết
trong chiến trường lại phải vào tù, từ trong tù tìm cái sống trong cái chết lúc
vượt ngục, thoát ngục nhỏ thì tới nhà tù lớn nên lại phải tìm cái sống trong
cái chết lúc vượt biên, nhưng nhờ ơn trên thương những thằng lính chiến trẻ người
nhưng không non dạ nên chúng tôi được bình an, hít thở không khí tự do. Tuy vật
lộn với cuộc sống, nhưng chúng tôi vẫn còn bên nhau để ôn kỳ niệm “đồng đội cũ,
chiến trường xưa” và nhắc lại chuyện vượt ngục như một lời chào và hỏi thăm đến
các Mũ Xanh, nhất là các anh 4/71+5/71, cho dù các anh ở bất cứ nơi đâu “Thiên
Đàng, Niết Bàn hay địa ngục, kể cả địa ngục trần gian XHCN..
Th/úy Phạm Bá
Niên hiện sống tại Quebec, Canada
Th/úy Trần
Văn Khỏe, căn cứ “Evergreen” thung lũng hoa vàng San Jose, California.
Niên và tôi gặp
lại nhau tại Hawaii ở Condo nhà tôi, nơi mà vợ chồng tôi dự trù sẽ hưu trí sau
này. Ngày tháng năm trôi quá nhanh, thắm thoát đã 32 năm kể từ khi chúng tôi
thoát khỏi cảnh lao tù cộng sản ngày 19-6-1979.
No comments:
Post a Comment