LAO TÙ VÀ VƯỢT NGỤC
“…Tá túc một đêm, sáng hôm sau đi sớm đón xe
thẳng về Rạch Kiến, Long An, quê chồng bà chị hai tôi trú ẩn. Nơi đây, với tôi
coi như một căn cứ an toàn để tái phối trí, khi có sức rồi xuất quân đánh tiếp…”
PHẦN HAI - CHÂN CỨNG ĐÁ MỀM.
Chiếc cà dom 14m x 3.5m với 127 người. |
Trốn tù ra trong những ngày cuối tháng sáu,
1979. Đã hơn 4 năm sống cách biệt với thế giới bên ngoài, tinh thần tôi khủng
hoảng và sợ sệt, tôi về tịnh dưỡng dưới quê nhà anh rể tôi vùng Rạch Kiến, Long
An. Được vài tháng quen cách sống bình dân, tôi
trở lên lại Saigon liên lạc được một số bạn bè cũ,biết được Phan V. Đuông.thằng
bạn cùng khóa chung TĐ5/TQLC cũng ly đòn trốn trại tù như tôi nên tìm nhau để dựa
lưng mà sống, có tình đồng đội thì dù tiền tuyến hay hậu phương, dù trong lòng
địch thì chúng tôi vẫn thấy an tâm hơn.Len lõi sống qua ngày, Đuông thi bơm hột
quẹo ga chợ Sai Gòn, tôi vá bánh xe đạp khu Hải Quân Công Xưởng kiếm ăn, đồng
thời nghe ngóng tin tức để tìm đường vượt biển.
Vài tháng sau, gặp được Nguyễn Văn Phải cũng
khóa 4/71 bên Binh Chủng Nhảy Dù được VC thả về trước ba năm,bà mẹ già anh về
quê để lại căn nhà nhỏbên hông trường Đại Học Sư Phạm,thấy bạn bè không nơi
nương tựa, Phảikéo một đám về cho tá túc hằng đêm, sau này có thêm Sơn, Lâm BĐQ
tất cả độ khoảng trên dưới năm bảy thằng toàn là SQ trong 3 binh chủng
TQLC,ND,BQĐ.
Ban ngày tủa ra đường kiếm ăn, đêm thì ghé
lưng được vài ba tiếng, chúng tôi thường tranh nhau chỗngủ trên gác gần máng xối,
để khi đêm về có động tỉnh thì hồn ai nấy giử, trổ máng xối chui ra mà chạy.Tháng
ngày trôi qua, ngoài cái đói và phập phòng lo sợ hàng đêm, những thằng trốn tù
như tôi và Đuông phải nỗ lực ráo riết tìm đường vượt biển.
Nghe Phải nói về tổ chức vượt biên của anh Sáu
(Khoái Th/tá ND). Đuông và tôi thì trên răng dưới “lựu đạn” tìm đâu ra một hai cây vàng mà đi? Nhưng tôi
cũng bậm gan nhờ Phải hỏi dùm “đi trước
trả sau” cầu mong anh Sáu đồng ý. Vài tuần sau, nghe được trả lời còn một chổ
cho tôi đi trong chuyến “Chín Thu” Tôi không biết mặt anh Sáu nhưng tôi thầm phục
một đàn anh, cảm thông và giúp đở đàn em trong cảnh khốn cùng, như một tia sáng
vươn lên hòa lẫn trong niền hy vong. Vài hôm sau ngày đổ bãi đã đến, tôi được
anh hai Nhất tới dẫn đi Vĩnh Long. Trên xe đò, tôi tò mò hỏi “Hai Nhất có phải
tên thật của anh không?Và “Chín Thu” là ai? Mấy anh gọi nhau bằng ám danh tôi
không hiểu ra tên ai hết.
-Tôi là HSQ đàn em của anh Sáu, tôi thường hay
đi trước nên mệnh danh hai Nhất.
Tôi hỏi tiếp, như vậy còn Chín Thu, anh hai Nhất
trả lời:
-Chín Thu là Th/tá Mai B.T, chồng cũ ca sĩ
K.L, hiện anh đang giữ con cá lớn, là bạn thân của anh Sáu yên chí đi.
Tôi thầm nghĩ số tôi quá ư là may mắn, cái
danh“Mai B.T” vang bóng một thời nổi tiếng dân chơi của Biệt Đoàn .., nay được
anh tới đón là điều không thể tưởng.
Tới Vĩnh Long đã chiều, anh hai Nhất và tôi
ăn vội dĩa cơm lót dạ, rồi đón xe lôi chạy thẳng về điểm hẹn. Tôi không còn nhớ
rõ nơi nào, một căn nhà nhỏ độ vài mươi mét vuông, cạnh bờ rạch nhỏ, vào bên
trong nhà, tôi ngã lưng trên chiếc võng sau nhà. Anh hai Nhất đi tìm người liên
lac. Giờ phút đến theo dự trù khoảng độ 10 giờ đêm. Tôi hồi họp chờ đợi, rồi 11
giờtôi thấy anh hai Nhất lầm lũi trở về trong bực tức anh chửi thề:
-ĐM, thằng Chín Thu chỉ rước đám ca sĩ Ngọc
M.., bỏ lại cánh mình.
Lòng buồn vô hạn, nhưng cũng an ủi ,vì đâu đã
mất tiền, có lẽ đây là cách chơi của đàn anh, chuyến vượt biên đầucoi như hoàn
toàn thất bại, tôi lểu thểu trở lại Saigon .
Thời điểm 1979 bấy giờ, vượt biên, vượt biển
là đề tài chính.Lường gạc, lừa đảo lẫn nhau là chuyện bình thường.Vợ tôi khi tới
Úc cũng cực khổ,cố gắng làm gởi tiên về gia đình nhưng chỉ đủ cho thằng em trai
tuổi nghĩa vụ đóng tiền vượt biển.
Đầu năm 1980, tôi tình cờ gặp anh Phan Thành
Nam,trước kia anh là đ/úy trưởng phòng truyền tin Phủ Tổng Thống ở chung trại
tù lúc còn ở Trảng Lớn, anh bây giờ đồng cảnh ngộ như tôi, nhưng anh may mắn hơn
có được Chị Thu, người vợ rất lanh lẹ và quán xuyến công việc mọi đàng.
Anh Nam cho biết đã đóng tiền một chỗ đi rất
tin tưởng,chiếc ghe đang kéo lên ụ tàu Cầu Rạch Ong sửa chữa,sẽ được xuống nước
trong thời gian ngắn. Làm cách nào tôi đào ra 2 cây vàng để đưa cho chủ ghe để
được có phần trong chuyến đi cùng anh Nam sắm tới.
Tôi liên lạc với má vợ tôi thường xuyên, bà rất
thương tôi, chạy lòng vòng vài chỗ hỏi mượn cho tôi đến khi vợ tôi gởi tiền về
thì hoàn trả lại, cũng may có người bạn cùng xóm của vợ tôi cho mượn. Được 2
cây vàng lòng mừng không diễn tả được, nhưng bấy giờ lại sợ bị mất tiền.Tôi đòi
hỏi thấy chiếc tàu đồng thời được làm thủy thủ. Người chủ tàu đồng ý lời tôi. Khi
đưa xong vàng, đi sâu vào nội bộ thì biết ra có 2 phe cánh đang tranh nhau làm
chủ, một bên chủ máy và một nửa của chủ vỏ ghe. Cuối cùng, bên bỏ tiền mua máy
tàu làm chủ, vì chủ vỏ ghe đã lấy quá nhiếu vàng. Tôi và anh Nam cũng may được
hai bên đồng ý cho làm thủy thủ đoàn vì họ đang cần người chăm sóc chiếc ghe. Với
tôi thêm một chỗ ngủ mới cho tôi thay đổi, trong thời gian trốn tránh. Tôi thường
phụ thợ máy mỗi khi làm hộp số. Khi rảnh rỗi thì tới nhà Diệp Phi Hùng tìm anh
Sơn để học hỏi lý thuyết về cách lái ghe, khi gặp sóng biển lớn, và những ký hiệu
phao nổi ngoài cửa biển. Anh Sơn chỉ vẽ rất tận tình vì trước kia anh là dân
lái giang thuyền PCF, anh Sơn luôn căn dặn:
-Nhớ lúc nào cũng đi sóng 6/4 hay 7/3, không
bao giờ chẻ sóng 5/5.
Những danh từ thường dùng cho dân HQ, tôi
chưa bao giờ nghe,rồi anh giải thích.
-Sóng 6/4 là mũi ghe và sóng biển với góc 60
độ và 40 độ, 7/3 là 70 và 30 độ, còn 5/5 là sóng biển và mũi ghe góc vuông 90 độ,
phải nên tránh trường họp này. Tôi cẩn thân ghi chép từng đoạn, vẽ hình từng loại
phao đặt ngoài cửa biển. Trước đây khi còn trong tù, tôi cũng học hỏi sơ qua của
mấy thằng bạn HQ chung trại nhưng có bao giờ nghĩ tới có dịp thực hiện bao giờ.
Khoảng tháng 3/1980 chiếc ghe hạ thủy,với 14m
dài, gần 3m chiều ngang, vỏ nghe đi sông biến thành ghe biển. Lúc đang chờ hợp
đồng tôi và anh Nam lấy ghe chạy thử lái thì dễ nhưng cập bến là vấn đề khó
khăn, hơn nữa tôi nghỉ đâu phải là trách nhiệm của tôi. Vài tuần sau, khi có giấy
phép hợp đồng chở cát về xã Lý Nhơn thuộc Quận Nhà Bè, cũng là dịp để thử chiếc
ghe, thì đám tài công chính xuất hiện, một th/Sĩ HQ làm tài công chính, một ch/úy
và hai người khác tôi không nhớ rỏ, tất cã đều là phe ta, có lẽ ngoài tài công
ra, đoàn thủy thủ này toàn bộ “amateur” như tôi và anh Nam.
Sau ba chuyến đi hơp đồng coi như suông sẻ,
qua sông Nhà Bè rồi tới xã Lý nhơn. Kế hoach bàn thảo sẽ đổ quân vào chuyến thứ
tư với hợp đồng nước đá Huyện Cần Giờ, nhưng khi ra cửa sông lớn lái gần bên phải
để bốc quân bên Vàm Láng.
Vào cuối tháng Tư, theo dụ trù sẽ tất cả chờ
trên cá nhỏ (ghe nhỏ), sẵn sàng ngoài cửa sông Vàm Láng, chờ khi trời sụp tối
cá lớn (ghe lớn) đến bốc rồi thẳng ra cửa biển trong đêm. Mỗi nhóm một phận sự
trên bờ ông chủ ghe điều động bốc người, phần chúng tôi là làm thế nào để đưa
ghe lớn “cá lớn” tới điểm hẹn an toàn và
bốc người đầy đủ.
Ghe rời ụ xuất phát khoảng lúc 8 giờ sáng, chạy
sang cầu chử Y rước bà chủ ghe, lúc chờ đợi tôi lội xuống kiểm soát chân vịt lần
cuối. Ghe bắt đầu rời bến, lúc đi “hợp đồng” thì không gì lo sợ, không hiểu lúc
này sao lại run chân, chạy ra khỏi vùng sông Saigon, rồi khu vực Nhà Bè, xuyên
qua những con rạch nhỏ tôi không còn đinh hướng được vì qua các khúch rạch cong
queo, tôi vào cabin nhìn qua tấm hải đồ định hướng. Anh tài công chỉ vào hải đồ,
tôi thấy đã hơn nửa đoạn đường, chúng tôi cho ghe chậm lại lúc đó độ hơn 1 giờ
trưa, lòn lách trong những con rạch nhỏ. Tôi không hiếu tại sao anh tài công lại
đi đường tắt này rất dễ lộ diện. Nếu là tôi lái thì sẽ đi con đường chính, cũng
may là không ai phát hiện, tà tà chạy tới, con sông bắt đầu rộng dần, rồi tới rộng
lớn mênh mông, anh tài công lái ra chinh giữa, nhìn qua hai bên bờ qua xa, cả đoàn
thủy thủ trên ghe mừng hớn hở, hy vọng đã vươn cao, gần tới chỗ bốc người, trời
cũng xế chiều.
Bỗng hàng loạt AK50 bắn ròn rã vào hướng ghe
chúng tôi đang chạy. Biết bị lộ, trên ghe cả đám mất tinh thần, lúc này tôi ra
lệnh cứ tiếp tục chạy, coi như không nghe biết gì, anh th/sĩ tài công cũng nghe
theo, chạy thẳng qua hướng về Vàm Láng. Tiếng AK50 nổ dòn và dữ dội hơn kèm
theo M79 nổ ầm ầm trước sau con tàu. Bà chủ ghe quá sợ, kêu chúng tôi quay vào,
còn đang suy nghỉ thì 2,3 trái M79 nổ ầm, ầm sát bên ghe. Anh tài công hốt hoảng
quay mũi tàu hướng về phía Công An. Rồi nghe tiếng AK bắt đầu bớt lại, khi thấy
ghe chúng tôi hướng thẳng vào bờ.
Cửa biển quá rộng mà tôi lại không rành địa
thế, làm sao tôi dám nhảy sông, nghĩ bụng đợt này mình chết chắc, bao nhiêu lần
may đều thoát nạn giờ thì đã hết vận may. Có thể trong đoàn thủy thủ tôi là người
tội nặng nhất, trốn tù, giấy tờ giả, thêm tội vượt biên. Cả đoàn thủy thủ mỗi
người ngồi một góc, có thể họ cũng đang tìm lời đối đáp với bọn công an.
Chiếc ghe từ từ lũi vào chỗ cạn, một đám công
an cầm súng nhảy lên ghe, trói tay tất cả, bắt lội xình vào trong xã, rồi quỳ một
hàng như những tội phạm đang đợi giờ xử bắn.
Bà chủ ghe cũng bị đưa vào trong đó hỏi cung,
và trình giấy hợp đồng bà đang giữ.
Tên công an xã quát lên:
-Hợp đồng buôn nước đá này là giả, hợp đồng
vượt biên thì đúng hơn.
Bà chủ ghe cũng cãi lại:
-Trên ghe không bằng chứng vượt biên
Tên công an cười mỉn rồi nói tiếp:
-Bà có biết ai tên là Nguyễn Thị Quí không? Chủ
máy của chiếc ghe này, chính bà ấy lên tận sở công anh thành phố thưa bà đó.
Công văn, công điện chúng tôi nhận được từ lúc 12 giờ trưa hôm nay, và bà ấy đã
cho biết bà Lê Thi Hồng cướp ghe vượt biển. Ghe này có phải mang số: SS0167 không?
Nói xong tên công an quăng ra bản công điện nhận từ sở công an Thành Phố, trên
đó có ghi rõ tên chủ ghe, chủ máy, và những lời tố cáo hợp đồng giả mạo để vượt
biên, nên bà chủ ghe cứng họng.
Trời vừa sụp tối, chúng giải giao tù về huyên
Cần Giờ, đoạn đường này phải mất cả đêm.Tôi không còn nhớ tên xã, nhưng biết là
xã cuối cùng của Huyện. Sáu tên công an áp tải với 3 khẩu AK 47, 2 khẩu M16 và
1 cây M79. Nhìn những khẩu súng trên tay 6 tên công an đang giữ, trong số các
loại này tôi chỉ sợ khẩu M79.
Chúng tôi được mở trói lúc trên ghe rồi bị đẩy
tất cả xuống boong tàu, chỉ chừa lại một tài công điều khiển.Ghe chạy được một
đoạn ngắn, anh th/sĩ tài công buồn chán nản, cho gọi tôi lên điều khiển con
tàu. Tôi nhảy lên phòng lái, nhanh mắt quan sát, thấy cách công an bố trí, rồi
thoáng nghỉ chắc đời mình hết chạy, một tên công an ngồi trên mũi ghe, một sau
lái, một trên nóc, 2 bên hông và một ngồi cạnh bên tài công để hướng dẫn đường.
Như con chim bị nhốt trong lòng, cố tìm
lỗ trống bay ra, cầm tay lái nhưng đầu tôi luôn suy nghỉ. Hơn 8 giờ đêm, trên
trời mặt trăng tròn hơn nửa mảnh, ánh sáng trăng chiếu sáng trắng boong tàu. Bỗng
tên công an ngồi cạnh tôi lên tiếng hỏi.
-Trên ghe các anh có gì ăn không?
Tôi suy nghĩ một chút và trả lời:
-Trên ghe có gạo, muối, cá khô sặc, cá khô đuối,
nếu các anh đói bụng thì tôi đi nấu cơm, gọi thằng đàn em lên cầm lái thế tôi một
đoạn, cho tôi đi bắc nồi cơm. Khi bước ra sau ghe gặp tên công an sau lái hỏi.
-Anh làm gì đi ra đàng sau này?
-Đi nấu cơm, anh ngồi trong phòng lái bảo tôi
đi nấu cho các anh ăn.
Tên công an này yên lặng, thì ra công an
trong phòng lái với tôi làm trưởng toán, nấu cơm xong tôi nướng cá khô sặc kèm
theo khô cá đuối. Mùi cá khô làm thơm phức cả tàu, tôi thấy cả mấy tên đói bụng
chờ ăn. Nấu cơm, nướng cá khô xong hơn 9 giờ đêm,tôi dọn ra phía trước giữa boong
tàu, rồi mời tất cả vào ăn một lượt. Sáu tên công an tụm lại ngồi ăn.
Không biết được điểm đứng, nhưng đây là dịp
ngàn năm một thuở, bằng mọi giá tôi phải thoát khỏi con tàu này. Chui vào phòng
lái dặn dò thằng đàn em, thấu hiểu được hoàn cảnh của tôi, nên đã như lời tôi dặn.
Con sông rộng độ chừng 100m, tôi thì quờ quạng không lội được xa.
Ghe bắt đầu lạc dần bên phải, thấy anh Đ/úy Nam
trưởng phòng truyền tin PTT nằm ngoài cạnh boong tàu. Tôi nói nhỏ vào lỗ tai
anh ấy,trốn không? Đã tới lúc.
Anh trả lời với giọng buồn thiu:
-Bạn đi đi, giấy tờ tôi đầy đủ, hơn nữa giờ
này vợ con tôi không biết ra sao ngoài cửa biển, good luck”.
Biết anh không đi, tôi vội vàng lòn qua khung
cửa sổ bên hông tàu, rồì thả nhẹ minh trầm xuống nước. Chân vịt phía sau tàu
giúp đẩy thẳng tôi ra một đoạn, cố nín thở, lặn sâu xuống nước, nhưng không hiểu
sao lúc này đầu tôi cứ lại trồi lên, cách chiếc ghe độ chừng 10 mét, tiếng máy
ghe cứ đều đều nổ, không một nghi ngờ phát hiện, thật cám ơn thằng đàn em, rồi nín
thở cắm đầu lặn tiếp, lặn mấy hơi mà ghe cũng thấy còn gần, vừa lặn tôi vừa quạt
về bên phải để vào bờ. Lúc này, tôi sợ nhất là khẩu M79, lỡ khi phát giác bọn
công an dùng khẩu đó để bắn chụp xuống sông, chắc tôi sẽ bỏ xác vì tức nước, AK47
và M16 thì tôi đã biết rỏ tầm tác hại, xui lắm tôi mới dính đạn này.
Cám ơn
Thủy Quân Lục Chiến.
Cám ơn
Quảng Trị chiến trường.
Kinh
nghiệm đó tôi lấy làm cản bản.
Để đối
phó cùng thực tế đêm nay.
Trần Văn Khỏe - Trưởng Ban Tổ Chức Hội Ngộ Khoá 471 Kỳ 2 San José Cali |
Ghe vẫn chạy tà tà trong đêm trăng sáng, khi tôi
bám được bờ thì tiếng máy đã xa dần, nhảy lên bờ tìm chỗ núp, phòng khi phát hiện
ghe trở đầu tìm kiếm. Nằm yên lặng trong mấy gốc chàm hơn nửa tiếng với quần xà
lỏn áo thun.Muỗi (B52) bắt đầu quần thảo khi đã đánh hơi, tôi cố tìm một khoảng
trống bằng mặt để nghỉ lưng, nhưng tìm mãi vẫn không sao có được.Cuối cùng phải
đành nằm trên đống chàm u lồi lõm. Chịu không nổi với đám muỗi rừng quần thảo,
tôi trầm mình xuống nước để giải vây, vừa đứng yên tay chân không quậy nước, một
đàn cá bay vào phập tới tấp chân tôi. Chưa bao giờ tôi nghĩ cá cắn đau như vậy.Tôi
sợ một hồi nó phập luôn “thằng nhỏ” nên nhảy phóng lên bờ thà chiụ đựng B52 còn
hơn. Không chịu nổi B52 thì cho tàu lặn cắn. Tôi không chợp mắt chút nào từ 10
giờ đêm tới 4,5 giờ sáng. Ánh sáng mờ mờ từ hướng đông, chung quanh thật yên tỉnh.
Lạnh và đói, tôi ước gì có ly rượu đế ấm lòng.Tôi bâng khuâng nhớ lại những đêm
lạnh nước ngập trong lúc trung đội đi tiền đồn ở thôn Gia Đẳng, nhớ lại đêm trốn
trại ở Bù Gia Phúc năm rồi trong rừng Phước Long.Nhưng rừng cao nguyên khác xa
rừng tràm ngập mặn của vùng Rừng Sát. Những ngày đó, tôi còn đồng đội, còn anh
em. Bây giờ đứng đây, một mình, “tứ đầu đối địch”.
Bỗng tôi nghe đàng xa trong bờ rừng bên phải
từng hồi kẻng vang lên đánh thức đoàn người thức dậy, loại kẻng này với tôi
không lạ.Tránh đầu này thì nghe kẻng đầu kia. Biết mình bị lọt vào khu vực trại
cải tạo nửa rồi, nhưng tôi không biết được nó là ở nơi nào. Điều trước hết là
phải lội qua bên kia sông rồi tính tiếp. Tôi đi tới đi lui một hồi tìm không ra
khúc sông hẹp, lu bu tìm kiếm thì trời mờ sáng, từ đàng xa tôi thấy một ông già
ngồi trên chiếc xuồng nhỏ chăn vịt, tôi lò mò đi tới khi thấy tôi ổng liền hỏi:
-Cậu làm gì ở đây?
Tôi phải đành nói thật:
-Dạ cháu đi vượt biên bị bắt khi ghe chạy tới
đây rồi nhảy trốn.
-À thì ra chiếc ghe chạy qua đây hồi tối.
Tôi vội hỏi thăm dò tiếng kẻng.
Ông trã lời:
-Đây là Đặc Khu Rừng Sát, quanh đây toàn trại
cải tạo, phục hồi nhân phẩm xì ke ma túy.
-Vậy bên kia sông có trại cải tạo nào không.
-Không, chỉ bên này thôi.
-Bác làm ơn đưa cháu qua sông được không, vì
cháu lội không rành.
-Không được không được, cậu có thấy một đàn vịt
gần 2000 con tôi đang chăn, đưa cậu qua sông đàn vịt của tôi thất lạc biết đâu
mà tìm. Thôi cậu ráng mà lội qua đi.
Lòng buồn thất vọng, nhưng cũng hiểu cho ông
vì đàn vịt đó là sự sống của ông. Tôi đi tới, đi lui vài lần dọc theo bờ sông,
xình, bùn, cỏ lác trộn lẫn những gốc chàm và nước ngập hơn nửa gối để tìm chỗ
nào hẹp nhất để lội qua, nhưng dường như không khác chổ nào. Dòng sông nước chảy
xiết rộng chừng gần 100 mét. Tôi lội được hơi xa từ lúc dự định trốn tù nhưng
chỉ lội tới lui trong con suối nhỏ,giờ đụng phải con sông quá rộng, lúc này tôi
ước gì lội được như thằng Sinh, thằng Mỹ hai đứa nó dạy tôi lội lúc rảnh rỗi buổi
chiều. Suy nghĩ bâng quơ một hồi trời sáng hẳn, đã tới lúc tôi phải quyết định
lội qua, bằng mọi giá phải rời xa khu cải tạo.
Nhớ lời thằng Sinh nói, điều quan trọng nhất
là khi mệt phải thả ngửa,chân đạp nhe nhàng, đừng để vọp bẻ, khi đở mệt thì lội
tiếp.Tôi lấy lời thằng Sinh như bài kinh cho mình để vượt qua con sông này.
Lấy hết bình tĩnh, tôi bắt đầu lội,lúc đầu
còn khỏe, thì lội sải cố gắng lắm được khoảng 20 mét, nước sông chảy xiết, quá
mệt tôi thả ngửa mặc cho dòng nước đẩy, hơi đỡ mệt tới phần lội nhái, cứ sải,
ngữa, rồi nhái tới được giữa sông, thả ngửa nghỉ mệt.
Nghĩ tới vợ và đứa con gái còn chưa thấy mặt,
nhưng dẫu sao vợ con tôi đã đến được bên bờ tự do, có biết tôi đang sắp chết đuối
để đi tìm. Tiềm thức cũ, cứ lần lược tung ra trong lúc đó, có lẽ là dấu hiệu của
những người sắp vĩnh viễn ra đi.
Bỗng nhiên tôi sực nhớ tới câu truyện “Anh phải
sống” của Khái Hưng, hai vợ chồng chèo xuồng ra giửa sông vớt củi, trời mưa,
sóng lớn, rồi bị lật xuồng, vợ chịu chết đuối cho chồng sống nuôi 3 con, thằng
Bò, cái Bé, cái Lớn “Anh phải sống”,
không lẽ tôi bị chết chìm như người vợ trong câu truyện này.
Ý chí tôi trở nên mạnh hơn “Tôi phải sống để
tìm Tự Do”, trở người lại, tôi sải thêm một đoạn rồi nhái, ngủa, liên tục hai
ba lần thì sắp tới bờ bên kia… thả ngửa, nghỉ mệt lần cuối rồi lội tiến thẳng
vào bờ. Gần tới bờ tôi quá mệt, với nắm được cành tre nằm thòng đưa ra ngoài mé,
mừng quá tôi đu lên để kéo người vào bờ cho lẹ, cành tre không chụi nổi sức nặng
thân tôi, gãy kêu rôm rốp.
Nghe tiếng động, tôi chợt thấy 3 dáng người
chạy thẳng vào hướng tôi. Vội vàng tôi lặn xuống chui vào gốc tre lẫn trốn, rồi
ngóc đầu quan sát. Thấy 3 thanh niên với trang phục áo quần bộ đội, tôi mất hồn
định lặn trốn xa, thì tôi nghe tiếng của một thanh niên trong đám.
-Đã thấy anh rồi, đừng sợ, tụi em trốn nghĩa
vụ, không phải bộ đội.
Nghe tiếng nói của người miền Nam, khi nhìn
thấy tụi nó trẻ, chắc là nói thật, tôi liều mạng lội ra bò lên bờ.Ba thanh niên
dẫn tôi tới căn chòi nó đang ngồi ăn cơm và bắt đầu phỏng vấn.
-Anh làm gì ở đây?
-Đi vượt biên, ghe bị bắt ngoài cửa biển, công
an giải về Cần Giờ, tới đây anh nhảy trốn.
-Em có nghe tiếng ghe chạy ngang đây đêm qua
nhưng không nghĩ là ghe bị bắt.
Thanh niên ngồi đối diện tôi nói:
-Anh này gan thiệt, anh có biết đây là “Đặc
Khu Rừng Sát” nổi tiếng cá sấu trên con sông này không? Tuần vừa rồi có đàn
trâu lội ngang sông, có một con trâu nghé bị cá sấu cắn đứt một giò.
Tôi trố mắt hỏi lại “thiệt hôn” vậy mà từ tối
qua tới giờ tôi cứ lên xuống nước liền liền, có biết đâu mà sợ. Quả thật là số
tôi vẫn còn may mắn, đúng là điếc không sợ súng, nghĩ lại rùng mình. Hồi lúc nhỏ
khi chưa đi lính tôi thường nghe nói về “Đặc Khu Rừng Sát” này, nhưng không nghĩ
đươc ra là địa thế quằn quèo và hiểm trở như thế này, rất lý tưởng cho VC dể
dàng phục kích.
Thấy mấy đứa ăn cơm với vài cục muối hột, tôi
quá đói không mắc cở, mở lời.
-Cho anh xin nửa chén cơm được hôn.
-Được. Thằng ngồi bên cạnh bới cho tôi gần một
chén cơm nguội.
Tôi đớp ngon lành, cắn hột muối mà tưởng như
cục đường khi nhai cơm một hồi trở thành quá ngọt, cảm giác này chưa có trong đời.
Vừa ăn tôi vừa hỏi chuyện, tụi em ở đây từ bao lâu rồi?
-Hơn sáu tháng
-Có về thành phố chơi không? Nhà ở đâu? tôi hỏi
-Thỉnh thoảng nhớ nhà, ra cửa sông lớn có
giang ghe về Nhà Bè, trốn về chơi vài ngày rồi trở lại.
-Anh muốn về cầu Rạch Ong thì làm sao đi?
Thanh niên ngồi cạnh tôi bên trái nói:
-Cách đây không xa lắm, tui em biết có một bà
nhà ở gần khu cầu Rạch Ong xuống đây giăng câu, nhưng lâu lâu bà ấy mới về. Tụi
em dẫn anh tới đó cho anh năn nỉ, may ra bà ấy về sớm.
Nói chuyện với ba đứa thanh niên trẻ, tôi tìm
hiểu để rõ thêm khu vực này. Gần mười giờ sáng, ba đứa dẫn tôi đi, qua những đoạn
rừng chàm, lên đê, xuống ruộng, rồi bờ rừng chừng hơn 2 cây số, tôi nhìn thấy
xa kia bắt đầu tới cánh đồng ruộng chạy dọc theo những đường kinh nhỏ, và căn
chòi nhỏ mập mờ. Tôi hỏi có phải căn chòi đó không?
-Đúng rồi, tụi em dẫn anh tới đó rồi quay về.
-Cám ơn mấy em nhiều lắm, nếu không gặp tụi
em thì anh biết ai mà nhờ.
Tới khúc đê quẹo vào trong chòi, 2 đứa đưng lại
còn một dẫn tôi đi thẳng vào trong để hỏi.
Tôi trình bày sơ qua cây chuyện vượt biên của
tôi cho Dì Tư rõ. Rồi thanh niên quay lại chào tôi “Thôi em về”. Sau khi mấy
thanh niên vừa khuất cua quẹo căn chòi, Dì Tư nhìn tôi rồi nói với giọng hốt hoảng:
-Thôi chết tôi rồi cậu ơi, ba đứa đó là điềm
chỉ viên của công an thôn này. Chúng muốn hại tôi nên đưa cậu đến nhờ tôi, rồi
đi báo công an để bắt luôn tôi. Thôi cậu đi tìm chỗ khác đi, tôi sợ lắm.
-Biết đâu mà đi bây giờ, cả khu vực này chỉ
thấy có một căn chòi, tôi tiếp tục năn nỉ dì. Thấy tôi năn nỉ quá, dì tư xiêu
lòng.
-Thôi được, tôi sẽ giúp cho có giang về cầu Rạch
Ong nhưng cũng phải vài hôm nữa, bây giờ thì cậu không được ở trong chòi mà phải
ra bờ rừng mà ở, khi nào tôi về sẽ cho thằng con ra kêu như vậy an toàn cho cậu
và cũng an toàn cho tôi.
Rồi Dì tư chỉ hướng trước mặt chòi là khu rừng
chàm dầy đặc, cách đó độ vài trăm thước, tôi nghe dì nói cũng có lý nên nghe
theo, hơn nửa cũng không còn cách khác. Có người nhận giúp lúc là vô cùng ơn
phước lớn. Tôi vội vàng cám ơn dì Tư rồi tiến về rừng. Đi gần tới đám rừng chàm
tôi nghe tiếng động rào rào dưới đất phía trước mặt, đưa mắt nhìn xuống tôi thấy
hàng ngàn con còng đỏ chạy chui vào hang lẩn trốn khi nghe tiếng động của chân
tôi bước đi đạp lên trên đám lá khô. Vào bờ rừng chừng năm ba thước, tôi lựa chổ
mát nhất trong đám chàm khô, nằm kê đầu vào nhánh rễ lớn. Mệt lã, tôi nằm yên
thiêm thiếp, tưởng là xác chết, một đám còng bò ùa ra cấu xé tay chân tôi. Tôi
vùng dậy đám còng văng ra tứ phía, tưởng rằng đâu chúng sợ khi biết tôi không
là xác chết. Khi thiếp đi thì chúng nó lại xông vào cắn tiếp, chẳng ngủ yên được
với đám còng đỏ này.
Cả đêm ngâm nước, giờ thì trời nắng chang chang
trong người tôi bắt đầu lên cơn sốt, lạnh rung cầm cập giữa buổi trưa, nhắm mắt
nằm co rút như con tôm cho đỡ lạnh. Nghe có tiêng động trên nhánh chàm nho nhỏ,
tôi mở mắt nhìn lên thấy một con rắn lớn bằng cườm tay đang cuộn mình bò xuống.
Tôi nhắm mắt nằm yên không nhúc nhíc, để mặc rắn cắn hay mổ gì cũng được. Con rắn
bò qua cạnh đầu tôi rồi chui vào đám rác.
Nằm ngoài rừng được vài ba tiếng, tôi nghĩ
lúc đó đô khoảng 2 giờ trưa. Chịu hết nổi cơn sốt, tôi đi liều trở vào chòi. Dì
Tư thấy tôi vào vội hỏi:
-Cậu vào đây làm gì? Đã nói cậu phải ở ngoài
rừng.
-Cháu bị sốt lạnh, ngoài đó nắng quá chịu
không nổi, rồi tôi tiếp tục năn nỉ dì Tư.
Suy nghĩ một hồi rồi Dì Tư nói:
-Tôi có thể giúp đưa cậu tới xã Lý Nhơn, rồi
từ đó đi bộ dọc theo đê chừng 5-7 cây số, qua phà, rồi đón xe về cầu Rạch Ong,
nhưng đưa qua cửa biển rộng này phải mất hơn 2 tiếng.
-Cháu trong mình còn vỏn vẹn 80 đồng, vừa nói
tôi vừa móc trong túi quần sọt đưa dì hết cả 80 đồng. Dì Tư cầm lấy nhưng không
hài lòng lắm, thấy mắt nhìn chiếc nhẫn cưới vàng 18K tôi đang đeo trên ngón tay
áp út, hiểu ý dì Tư tôi tuột nhẫn ra đưa. Ngay sau đó, thái độ dì đổi khác.
-Thôi được, để tôi kêu 2 cháu chuẩn bị ghe
đưa cậu về xã Lý Nhơn. Nhưng nè nghe tôi dặn, khi tới xã rồi cập trên đê mà đi
qua phà chỉ tốn 3 đồng, đón xe về Rạch Ong 5 đồng là tám. Đây tôi cho lại cậu.
Dì Tư cho tôi lại đúng 8 đồng, tôi vội vàng
cám ơn dì.
Hai thằng con tuổi chừng 13-15 đã chuẩn bị xuồng
xong,rồi vào dẫn tôi ra con kinh nhỏ. Tôi thấy chiếc xuồng 3 lá, cùng đống lá
chuối bên cạnh xuồng. Tôi vừa bước xuống ngồi yên trên xuồng, thì hai đứa nhỏ
nói:
-Anh nằm xuống đi, để tụi em phủ lên người lớp
lá chuối, để ra ngòai kia công an không để ý, tưởng tụi em đi chở ghe lá chuối.
Tôi nằm xuống theo lời hai đứa nhỏ, rồi nó phủ
lên người mình mười mấy tấm lá chuối tươi.
Thằng anh chèo mũi, đứa em chèo lái. Chiếc xuồng
nhỏ chở tôi luồn từ kinh này qua kinh khác, hơn nửa tiếng mới qua hết đoạn kinh
nhỏ trong khu Rừng Sát. Khi ra tới cửa con sông lớn, chiếc xuồng nhỏ bắt đầu gặp
sóng đi chậm dần, thấy hai anh em đứa nhỏ tôi vô cùng tội nghiệp, giá tôi còn
tiền cũng đưa hết cho hai em. Thỉnh thỏang tôi ngóc đầu lên nhìn xem còn bao
lâu nữa.
Thằng em sau mũi nói “ đã hơn nửa đường, còn
gần một tiếng nửa mới tới xã Lý Nhơn”
-Tụi em có thường chèo ra khu vực này không?
Rồi bắt đầu tôi hỏi chuyện
-Thỉnh thoảng qua đây bán cá, tiện đường về
thành phố mua những món đồ cần thiết.
-Tụi em chèo xuồng có mệt không?
-Quen rồi ngày nào mà không chèo, giăng câu,
đi chợ, chèo về nhà mổi tuần còn xa gắp bao nhiêu lần đoạn đường chở anh đi.
Trò chuyện với hai đứa nhỏ một hồi thì xuồng
đã tới xã Lý Nhơn.Hai đứa nhỏ nói tôi ngồi dậy đi, tới nơi rồi đó. Tôi chỉ nó cho
tôi xuống chỗ tôi đổ cát hai tuần trước đó. Rồi chiếc xuồng chèo thẳng tới nơi.Trước
khi xuống hai em căn dặn:
-Anh cứ đi thẳng trên đường đê này 5-7 cây số
sẽ gặp bến phà, qua phà rồi đón xe về cầu Rạch Ong đừng sợ lạc anh cứ đi đi.
-Cám ơn hai em nhiều lắm, thôi hai đứa trở về
nhà đi.
Lúc này đã hơn bốn giờ chiều, trong túi được
dì Tư cho lại 8 đồng, cũng hồi hợp sợ không đủ tiền xe. Bước đi trên đê có một
mình đơn độc, về tới đây tôi cũng bớt sợ rồi, quần sọoc, áo thun, đi chân không
như người làm ruộng, phóng đi thật lẹ, được vài cây số vẫn không thấy bóng người.
Tôi đâm ra lo sợ nhưng cũng phải bước đi, được vài cây số nữa thì tôi nhìn thấy
được một dãy nhà từ đằng xa, thật mừng rỡ, có lẽ là tới bến phà. Khi đến gần
thì quả thật vài chiếc ghe xuồng trước mặt đợi chở khách qua sông lấy giá 3 đồng.
Quả thật dì Tư nói đúng. Trả 3 đồng qua sông là tới Nhà Bè, tới bên xe lam về cầu
Rạch Ong tôi hỏi đúng giá 5 đồng. Tôi phóng lên ngồi cận bên bác tài, khi nhìn
tôi lạ ông tài xế hỏi
-Đi đâu mà chân không, quần xà lỏn, áo thun vậy?
-Ghe đi hợp đồng bị bể hộp số ở xã Lý Nhơn,
tôi phải lội bộ về nhà kêu thợ máy.
Thấy có lý bác tài không hỏi nữa. Khi xe chạy
đến ngang cầu Rạch Ong tôi xin xuống. Hết tiền, tôi liều quắc đại Honda ôm kêu chở thẳng về ngã sáu chổ nhà bạn thân
của thằng em,là một trong những nơi tôi thường tá túc. Về tới nhà cũng may, tôi
xin được 10 đồng đem trả tiền xe.
Tá túc một đêm, sáng hôm sau đi sớm đón xe thẳng
về Rạch Kiến, Long An, quê chồng bà chị hai tôi trú ẩn. Nơi đây, với tôi coi
như một căn cư an toàn để tái phối trí, khi có sức rồi xuất quân đánh tiếp.
Mất hết tiền trong chuyến đi này nhưng an ủi
là tôi vẫn còn mạng sống. Vượt biên quả thật là không đơn giản. Sau này khi trở
lại Saigon để tìm đường vượt biển chuyến thứ ba mới vỡ lẽ cũng vì lòng tham của
chủ nên chuyến thứ hai của tôi thất bại hoàn toàn.
Văn viết không hay, hơn 32 năm đã bao lần tôi
định viết lại chuyến trốn tù, để cháu con tôi, hay đời sau được biết, nguồn gốc
ở đâu và vi sao chúng được tới nơi này.
Nhờ Lý Khải Bình cho tôi dịp gặp đuợc 2 NT
trong buổi tiệc tân gia. Cám ơn NT Tô Văn Cấp, NT Phan Nhật Nam đã khuyến khích
tôi cứ viết lên những gì tôi nghỉ, nên đã hoàn thành xong câu chuyện trốn tù..
Chuyến trốn thứ ba của đời tôi vô cùng ngoạn
mục, cũng là chuyến cuối cùng tôi giã biệt XH-CNVN.
No comments:
Post a Comment