LAO TÙ VÀ VƯỢT NGỤC
Hắc Long Trần Văn Khỏe
PHẦN KẾT - TỰ DO ÁNH SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM.
Đã
hơn 32 năm rồi kể từ mùa thu 1980, tiềm thức tôi không sao xóa được cuộc hành
trình vượt biển, cứ mỗi lần tôi đi du lịch trên những chiếc tàu (Cruise) thật lớn
nhìn biển nước bao la, là hình ảnh vượt biên sống lại trong đầu, nhớ từng chi
tiết, tưng địa danh, từng đoạn đường, nhớ từng cơn sóng lớn đưa lên cao rồi đập
xuống hãi hùng lẫn trong tiếng kêu gào, van xin khấn nguyện , có lúc sóng đập
thật mạnh làm nước tràn vào gần ngập máy ghe, rồi mấy thằng em thay phiên tát
nước, những hình ảnh đó làm tôi không sao quên được. Mông lung tôi nhìn mây đen
lo sợ, đưa tay đo sức gió để đoán sóng cho tàu, mà quên rằng tôi đang đi trên
con tàu mới hiện đại chưa đầy 3 tuổi (Oasis of the Sea), lẩm cẩm nghĩ thật buồn
cười cho đời người khi bước vào thời kỳ của lứa tuổi 60 mươi. Nhưng có lẽ niềm
suy tư lo lắng đó đã thấm sâu trong tiềm thức và sẽ theo tôi cho đến ngày tháng
cuối cùng.
Giửa
tháng 5, 1980 tôi trở lại SaiGon, mới vở lẽ lòng người chủ ghe tham lam nên
chuyến vượt biên thứ hai của tôi thất bại. Tôi bỏ nghề vá bánh xe đạp, long
nhong tối ngày hết thằng bạn này rồi phóng tới thằng kia. Đuông và tôi gặp nhau
rất thường, bửa nào anh trúng mánh thì 2 thằng no nê ăn uống. Có lúc đói quá
ghé ngã sáu Gia Long xin tiền thằng đàn em Lê viễn Hồng K4/72 tiêu xài đở vã. Hồng
cũng là mũ xanh trong binh chủng, khi ra trường về TD5 theo tôi mấy tháng. Sau
này chuyển qua Biệt Đội Sóng Thần lúc đơn vị mới vừa thành lập. Thằng đàn em
lúc này rất giỏi, chuyên môn mua bán hải bàn, ngồi vài tiếng là tiền vô như nước.
Tôi nhớ có lần Hồng chở tôi đi giao cái hải bàn PCF, đặt chính giửa yên xe chổ
2 thằng ngồi, chạy qua đoạn đường Phan Thanh Giản khi gần tới trường Văn Học, bị
nút chặn của một nhóm công an trước mặt. Tôi vừa nói “bò vàng nó chận”. Hồng
nhanh mắt, lẹ chân chống xuống đất quay đầu xe 180 độ, rồi ngược chiều chạy
trên lề bên trái, tiếng AK nổ dòn về phía chúng tôi. Như không để ý Hồng cứ
phóng, trên chiếc Honda 65 màu đỏ, xoáy nòng cylinder 90 phân khối chạy lạng
qua, lạng lại xen kẻ với đám thường dân đi bộ khiến công an ngần ngại không bắn
thẳng vào. Tôi bảo nhỏ coi chừng bị bắn xâu táo, rồi hai thằng cười ha hả.., cứ
chạy tìm ngõ hẻm quẹo vô. Vừa thấy được hẻm nhỏ bên trái, hai thẳng mừng hết lớn,
chui xe chạy vào rồi lòn ngõ khác đi ra. Giao xong cái hải bàn hai thằng thở
phào nhẹ nhõm.
Vắng
đâu vài tuần, khoảng vào cuối tháng sáu 1980, tôi không gặp Phan Văn Đuông nên
chạy đến chỗ quán bia hơi của em Đuông để hỏi thăm bạn mình,mới biết ra Đuông
đã có mối đi vượt biên, cũng bi bể nên bị bắt giam đâu dưới khu vực Cần Thơ. Kể
từ đó chúng tôi mất liên lạc, tôi trở về nhà bạn thằng em tôi tá túc. Gia đình
này là giòng họ “Khúc” anh em họ hàng với bà “Khúc Thị Minh Thư”, bác rất hiểu
hoàn cảnh của tôi nên bằng lòng cho tôi ở tạm. Nhà có tiền nhưng bác cũng đông
con,vàđã đưa vượt biên thoát được 2 đứa,sáu đứa còn lại, thì chia hai đi làm 2
đợt. Tôi nghe bà nói đã đóng tiền chổ khác cho 3 đứa đi tiếp tục.Lúc đó tôi định
hỏi mượn tiền của Hồng đi tiếp, nhưng quá ngại vì chuyến vượt biển vừa rồi tôi
đã bị mất trắng 2 cây vàng.
Ngày tháng trôi qua thật nhanh, đã tới lúc 3 thằng em trong nhà khăn gói
ra đi, lúc đó chừng đâu tháng 8, 1980.Nhìn tụi nó tôi thèm được đi trong chuyến,
và em trai tôi cũng buồn vì sắp mất
đi người bạn tốt.Nhưng tôi luôn cầu nguyện cho mấy thằng em đi được. Sáng ra, 3
đứa lớn được bà mẹ dẫn đi về vùng bốn, chỉđược độ vài hôm tôi thấy cả đám lại
quay về.
-Bể
nửa rồi hả bác? tôi hỏi:
-Không
có nhưng coi như đã bể, tài công không tới và làm eo đòi thêm 8 lượng vàng và tổng
số 10 người.
-Thuyền
trưởng Hải Quân hả bác?
-Không,
chỉ là HSQ Tr/sĩ Nhất nói là lái tàu rất giỏi. Rồi bà bác hỏi tôi:
-Vậy
con lái ghe được không? Biết coi cái cục “hải bàn” gì đó không? Nếu biết lái
ghe bác sẽ tìm mọi cách nói để cho con được làm tài công trong kỳ đánh bãi tới.
Có thể bác sẽ nói con là HQ vừa trốn trại.
Tôi
mừng quá, trã lời “dạ con lái được, hướng đi bác khỏi lo con rành lắm.” Tôi nghỉ
bụng ngày xưa tôi chấm điểm gọi pháo binh bắn hàng ngày còn được, mà phải chấm đúng điểm, huống chi bây giờ cả một
bờ biển Thái dài hàng ngàn cây số mà chấm không trúng một điểm thì coi như… đi
chết đi.
-Vậy
thôi được rồi, ngày mai bác đi sớm về Long xuyên gặp ông tám nói về chuyến này
cho cháu và đòi thêm cho cháu dẫn được 2 người.
Thấy
đôi mắt tôi mừng muốn khóc, tôi cảm động thương bà vì bà dám giao mạng sống cã
ba đứa con mình cho tôi, một tài công “dỏm”
bác nói tiếp, và coi tôi con như con ruột, vì tôi cùng tuổi với đứa con
đầu lòng của bác. Đêm hôm đó tôi chẳng chợp mắt tí nào trên căn gác nhỏ phía
sau nhà của bác. Suy nghỉ mãi, rồi tôi lo sợ ra ngoài gặp sóng lớn, mong trời
sáng để đi vào nhà Diệp Phi Hùng tìm anh Sơn học hỏi tiếp. Tờ mờ sáng tôi thấy
bà đã dậy đón Honda ôm ra bến xe về Long Xuyên thật sớm. Còn tôi cã buổi sáng
đó, anh Sơn nói tôi nên ôn lại hết những cái gì anh đã dạy, từ phao nổi ngoài
khơi cửa biển, đến những lá cờ các nước tôi phải nhớ thuộc lòng, rồi hướng đi
theo kiểu chử Z, bẻ góc độ thế nào để cuối cùng ghe chạy theo hướng tây 270 độ,
vào thẳng bờ biển Thái Lan. Ngày hôm sau đó, tôi buâng khuâng chờ bà về để biết
kết quả của chủ ghe đồng ý hay từ chối về những điều bác đòi hỏi. Tới chiều tối,
nghe tiếng xe Honda ôm ngừng trước cửa. Bà bước vào trong với vẻ mặt vui tươi.
-Chủ
ghe bằng lòng cho con làm tài công không bác? tôi hỏi
-Nghe
bác nói con là HQ mà trốn trại về tìm đường vượt biển là ông tám đổ bãi và chủ
ghe mừng hết lớn vì con đòi hỏi đi thêm chỉ có 2 người, nên họ đồng ý liền và
muốn gặp con vào thứ bảy tuần tới,bác sẽ dẫn con đi về Long Xuyên để cùng gặp mặt.
Tôi
mừng quá ôm chầm lấy bác, với thật nhiều lời lẽ cám ơn không diễn tã nổi lúc
này, trong lòng tôi xúc động, làm sao tôi được cơ hội như vầy, dẩu biết rằng đường
vượt biển với trăm ngàn cái khó. Suốt một tuần lễ chờ đợi ngày đêm dài đăng đẳng,
tôi ôn hết lại những gì trong hiểu biết. Tuần
sau, sáng sớm Bác và tôi đón xe đò về Long Xuyên để gặp ông tám, người đổ bãi
cũng là người quyết đinh ngày đi. Trên đường đi tôi cũng phập phòng lo sợ,
nhưng tôi nghỉ là tôi sẽ làm được. Xe ngừng ngoài lộ cách xa nhà ông tám, theo
ngỏ hẻm cong quẹo củađường vào nhà ông tám, khi vào rồi chưa chắc gì tôi biết lối
ra. Gặp được ông tám lòng tôi bớt hồi hợp, nhìn ông tôi thấy vẽ người hiền hòa
phúc hậu.Vừa nói chuyện, ông dẫn tôi vào trong buồng đưa tôi coi chiếc hải bàn
với tấm hải đồ ông đang giữ, sẽ giao cho tôi trong chuyến đi này.Tấm hải đồ
1/100,000 của vùng bờ biển Hà Tiên và chiếc hải bàn nhỏ bằng cái chén hiệu gì
tôi quên mất. Nhìn tôi biết đây là đồ loại giã, mới cầm lên cây kim chỉ Nam Bắc
đã quay lòng vòng, bọt nước đầy trong đó, tôi bảo ông tám trao cho tôi đem về
Saigon cho bạn sửa lại, ông cũng hoàn toàn đồng ý với tôi. Hôm sau tôi và bác
đem hải bàn về Saigon sửa chửa, xém một chút tôi bị bắt trên xe đò vì công an
lên xe lục soát.
Về
tới Saigon, Hồng nhìn cái hải bàn cười ngất “Đã đồ dỏm thì có bọt nước hay
không gì cũng giống nhau thôi, rồi Hồng lấy ống chích chứa dầu hôi bơm vào cho
hết bọt” lúc đó tôi mới nghỉ đúng là mình ngu thiệt. Vài hôm sau, bác và tôi ôm
cái hải bàn trở lại Long xuyên.Ông tám muốn thử tài nên cho tôi lái chiếc ghe
nhỏ của ông, từ Long Xuyên qua núi Sập đến ngã ba Tham Lương rồi tới chợ Hà
Tiên. Cầm tay lái ông chỉ đường tôi đi ngọt xớt, cũng may ghe ông tám nhỏ hơn
chiếc ghe tôi lái trước kia nhiều nên không gì trở ngại, và ông cũng chỉ rỏ cho
tôi chỗ nào ông đổ bãi, ghe lớn đậu chỗ nào, rồi ông sẽ bốc khách ra sao. Ghé
chợ Hà Tiên neo ghe rồi đưa tôi lên núi, tôi hỏi ông tám rằng mình đi đâu lên
núi Hà tiên.
Ông
trả lời “Xin xâm, cầu nguyện và cũng coi tuổi tôi có hợp với chuyến đi này”.
Lên tới đỉnh tôi thấy một ngôi chùa nhỏ, vào bên trong có vài tượng Phật Di Đà
bên cánh trái là Quan Công, Quan Đế, bên phải có tượng Phật Bà. Tôi đốt nhang rồi
quỳ khấn nguyện, xin cho con đi thoát khỏi chốn khổ này, tôi cũng lấy bó xâm
đưa lên lắc, được it lâu thì có một cọng quẻ văng ra, tôi cầm lấy nó đưa cho
ông tám đem ra ngoài có ông sư ngồi giải nghĩa. Tôi nghe nói tuổi tôi với quẻ
này là quá tốt.“Rồng gặp nước làm sao ngăn cản được”.Tôi thấy nét mặt ông tám
vui thấy rỏ, trong lần trước anh tài công bóc nhầm xâm hạ, quẻ giải ra thật xấu
vô cùng.Ông vui vẽ bảo tôi thôi mình về đi cháu.
Xuống
tới chợ Hà Tiên ông chỉ cửa biển ghe ra, và cho biết tình hình giờ giới nghiêm
tuyệt đối, 9 giờ đêm là không một tiếng máy nổ của ghe nào. Chính giữa sông là
rạn đáy giăng đầy, bên này chợ là hàng trăm ghe Quốc Doanh đánh cá, bên kia
sông là vọng gác công an. Ông hỏi:
-Nếu
theo cháu, thì ghe nên lái hướng bên nào,tôi quan sát kỷ rồi trã lời cho ông
tám.
-Chính
giữa sông không nên đi là tuyệt đối, rạn đáy giăng đày không có lối ra, còn bên
này sông có hàng trăm cập mắt, bên kia sông công an vọng gác chỉ có một hai người.
Như vậy cháu chọn lái ghe chạy về hướng đồn công an bên đó. Ông tám dòm tôi ngật
đầu đồng ý, cháu là tài công thì hoàn toàn quyết định nhưng phải lái tới đó trước
giờ yên tỉnh.
Bàn tính xong, ông tám và tôi ra ghe trở về Long xuyên, ghé ngang ngã ba
Thâm Lương gặp ông hai để đinh ngày đổ bãi. Cũng may ghe ông hai vừa tới đó một
vài giờ. Nhìn chiếc ghe Chà Dôm võ ngoài độ chừng 10 mét, vào trong ghe tôi dòm
thấy máy biết ngay là máy xe hơi chế biến, trên
Saigon khách đi vượt biên thường hay hỏi “Yama đầu bạc hay loại máy Gray” thấy
tôi suy tư ông hai hỏi “cậu có sợ lấy ghe sông đi biển không”
Tôi
trả lời:
-Ghe
nhỏ nào ra tới biển gặp sóng lớn cũng giống nhau thôi, có ghe đi là con vui rồi
bác ạ.
Ông
hai nói tiếp:
-Tôi
là thợ máy, chiếc máy Mercedes đời 61 tôi mới mua sửa lại chạy được hơn 6 tháng
nay, chạy rất tốt, đồ phụ tùng, đồ nghề tôi mua thủ sẳn đầy đủ cậu đừng lo. Bàn
thảo một lúc, rồi ông tám nói tôi vừa xin xâm rất tốt. Ông hai càng vui khi
nghe được tin này, rồi ông gọi 2 thằng con đang tấm dưới sông lên nhổ neo cho
tôi chạy thử, thằng lớn tên Lộc lên đề máy ghe, đạp “Âm brê gia” rồi sang số,
tôi lui ghe chạy thử mấy vòng, lái ghe lớn trước, bây giờ ghe nhỏ thì tôi chạy
thật dể dàng, chỉ ngại rằng ngoài kia sóng lớn. Nhưng tôi nghỉ con người có số,
đời người ai không chết, tôi thoát bao nhiêu trận rồi giờ có chết cũng chẳng
sao. Hơn nửa, trước kia giao mạng tôi cho người khác lái, còn giờ đây tôi quyết
định hoàn toàn, nên tin tưởng số tôi còn may mắn. Kế hoạch ông tám và ông hai
bàn thảo xong, định ngày cuối tháng, 30-10-1980 là đỗ bãi.Ông tám và tôi từ giả
ông hai hẹn ngày tái ngộ. Về tới Long Xuyên khoảng đô 8-9 giờ đêm, ngủ lại một
đêm ở nhà ông tám, rồi sáng hôm sau hai bác cháu tôi trở lại Saigon.
Suốt
hai tuần lễ, tôi nhờ má vợ tôi liên lạc với người bạn đã cho tôi vay nợ, để dẫn
đứa cháu đi trừ nợ hai cây vàng, khi biết ra thì đứa cháu kia đã vượt biên đang
bị bắt, cuối cùng khi tới ngày đỗ bãi tôi có một em trai cộng thêm thằng em thứ
tư trong nhà tôi đang ở.
Ngày
đỗ quân 6 anh em cùng trong nhà chia ra làm 3 cánh. Tôi đi một mình xuống Long
Xuyên để đi cùng ông tám, còn lại 5 chia ra hai cánh xuống Rạch Giá để qua ngã
ba Tham Lương, đúng hẹn 5 giờ chiều thì ông tám sẽ đón đưa ra ghe lớn. Tôi dặn
dò kỷ lưởng nếu có đụng trận (bể bãi) thì hồn đứa nào nấy giử, rồi tìm mọi cách
trở về nhà.
Tôi
và ông tám từ Long Xuyên ra tới ngã ba Thâm Lương gặp ghe ông hai tại điểm hẹn,
cách ngã 3 chừng vài trăm mét, thả tôi lên ghe lúc khoảng 3 giờ chiều, rồi trở
lại đón người đưa ra điểm bốc cách chợ Hà Tiên chừng một hai cây số. Tôi ra
ngoài ghe ngồi chờ 3 chiếc ghe nhỏ chay ngang qua, nếu đếm đủ số thì tôi nhổ
neo xuất phát. Giây phút chờ đã qua 5 giờ hơn tôi thấy chiếc cá nhỏ (ghe nhỏ)
chạy tà tà qua chổ tôi rồi đi thẳng, năm mười phút sau tới con cá thứ hai rồi
thứ ba liền sau đó. Tôi, ông hai và hai thằng con nhổ neo xuất phát, đoạn đường
đi từ ngã ba Thâm Lương ra Hà Tiên tôi không nhớ rỏ chừng bao nhiêu cây số, ghe
tôi lái chậm tà tà chờ trời sụp tối để vừa đến chổ bốc người.
Tới
điểm hẹn đúng lúc trời vừa tối hẳn, tôi cặp bờ sông bên phải, chỗ khúc sông hơi
vắng nhà dân và ít ghe qua lại, ghe vừa đậu lại, thì từng chiếc một (cá nhỏ) cập
sát đỗ người, trong chốc lát đã gần đầy ghe lớn, chiếc đỗ cuối là ghe ông tám,
tôi đếm đủ 5 thằng em trên đó. Như một trận chiến đổ quân, thật vô cùng hấp dẫn,
tôi thầm phục ông tám đã dàn quân, bố trận như một kế hoạch hành quân đổ lính rất
an toàn. Chừng năm bảy phút đám quân nằm
gọn trong lòng con cá lớn, cảm giác hồi hộp đầy thú vị này làm tôi nhớ lại lúc
ngoài chiến trận dẫn trung đội đi tiền đồn, cũng hồi hợp trong nhiều lần bắn lộn
với VC thức trắng đêm. Tôi bắt tay ông tám cám ơn với vài lời từ giả và ông
cũng dặn tôi cẩn thận khi ra tới cửa biển Hà Tiên.
Cuối
tháng mười, trời quá tối thêm nước ròng chảy rút ra cửa biển, theo kế hoạch thì
để ghe nổ máy nhỏ rồi chống cho ghe trôi theo dòng nước rút ra ngoài, nhưng
không ngờ nước rút quá lẹ, ghe tôi lái dường như bị mắc cạn trên lối đi vào cửa
chợ Hà Tiên. Tôi vội vàng nhảy xuống để đo chiều sâu dòng nước, nước không lạnh
mà mồ hôi làm tôi ướt lạnh,nước với bùn chưa qua khỏi gối tôi, trong đêm tối cùng
2 thằng con trai ông hai bước đi, lội ngang lội dọc, kiếm tìm cho ra chổ trủng
hay mực nước sâu để đẩy ghe trườn về hướng đó, sấp 9 giờ đêm là giờ cấm ghe qua
lại, tôi khấn nguyện ơn trên giúp tôi thêm lần nữa, rồi đi ngược về hướng sau
ghe xéo góc 45 độ, đi tới một đoạn bỗng nhiên tôi bị sụp vào chổ hố nước sâu, mừng
quá tôi đi ngược lại rồi cùng hai thằng con ông hai cố đẩy chiếc ghe đi vào chỗ
nước sâu tôi vừa đi tới, cũng may ghe nhỏ, đáy ghe tròn như hột vịt nên dễ quay
đầu xoay vòng lại, chúng tôi đẩy tiếp vài phút sau ghe lọt vào vùng nước chảy.
Mừng hết lớn, rồi ba thằng nhảy phóng trở lên ghe, lúc này chúng tôi cẩn thận
hơn, tôi lái tiếp và bảo 2 thằng em lên phía trước lấy sào chống đo mực nước.
Tôi để máy chạy nhỏ tà tà theo dòng nước rút kéo ra, tới ngang chợ Hà Tiên tôi
lái qua bên trái để tránh sức nước đẩy ghe vào rạn đáy, đến sát đồn công an thì
máy ghe bổng nhiên ngưng chạy, tôi đoán biết chân vịt bị kẹt kẻm gai giăng, trước
khi nhảy xuống tôi nói nhỏ mấy thằng em tôi chuẩn bị bung, nếu có tiếng súng từ
đồn công an bắn tới. Rồi tôi nhảy xuống nước lặn sâu mò tìm chân vịt, thấy nó bị
vướng vào những hàng dây kẽm gai, được kéo dài vào bờ giữ mấy cây trụ chân rạn
đáy, tôi cố đè dây kẽm gai cho chân vịt lướt qua, vật lộn với kẽm gai đâu vài
ba phút, ghe trườn qua trôi tiếp ra ngoài, hai thằng nhỏ nắm tay tôi kéo lên
cho lẹ. Tôi ra lệnh không nổ máy chóng sào ra cửa biển, lúc chân vịt bị vướng kẽm
gai tôi thấy vài chiếc xuồng nhỏ với hai ba ngọn đèn dầu loe lóe, tôi nghỉ là
dân đi gở cá bị mắc câu, không để ý đến họ, nào ngờ đâu họ chèo ngược vào trong
báo cáo. Chúng tôi ráng dùng chèo bơi tránh xa vọng gác cao của công an bên
cánh trái, ra tới cửa biển rộng mênh mông, theo hải đồ thì tôi biết khu vực này
toàn là cồn cát, nếu mực nước này so với trọng lượng ghe tôi nhỏ xíu thì làm gì
bị mắc cạn, nhưng tôi có cảm tưởng như ghe không còn chạy, thật không sai, thằng
Lộc con ông hai chống sào đo nước. Nó la lên:
_
Anh tám Khỏe ơi ghe lại mắc cạn nửa rồi, tôi thứ tám tên Khỏe mấy thằng nhỏ hay
trêu chọc gọi là “Anh Tám Khỏe” xin ly khai VC, tôi chẳng hiểu câu truyện cải
lương này đại ý ra sao, nhưng tôi cũng cười để mấy thẳng em nó gọi. Tôi và thằng
Lộc liền phóng nhanh xuống biển, quả thật
mức nước biển tới chừng đầu gối, tôi càng tránh xa đồn công an biên
phòng cuối cùng bên cánh phải thì vướng vào cồn cát nổi ngoài khơi, nước sông
rút ra biển quá nhanh chính ông hai cũng không ngờ tới. À thì ra đó là lý do
công an không canh gác bên mé cạn này, nhưng cũng may đầu mũi ghe chỉ mới vướng
vào bãi cát. Thằng Lộc và tôi cố đẩy hông bên phải cho chiếc ghe vừa đủ nổi. Bỗng
bên trong chợ, khu ghe Quốc doanh đánh cá, có tiếng la inh ỏi “Ghe vượt biên,
vượt biên” vài ánh đèn pin rọi quạt qua, quạt lại như kiếm tìm xem ghe chúng
tôi ở nơi nào, tiếng máy Yama đầu bạc một block bắt đầu cành cạch nổ. Thằng
Khoa bên trong ghe cũng đề máy lên, tôi và thằng Lộc kéo nhau nhảy lên ghe thật
lẹ, khi đã biết được cồn cát nằm bên cánh trái, thằng Khoa giao tay lái lại cho
tôi, lúc này tôi bẽ thẳng về hướng đồn công an biên phòng cuối cùng mà chạy, được
một đoạn khi tránh xa cồn cát rồi tôi đổi hướng chạy trở ra. Chiếc một block chạy
đuổi bám theo ghe tôi sát nút, trên ghe ông hai đọc kinh cầu nguyện cùng một
đám người bên dưới hầm tàu.
Chiếc
ghe lênh đênh xập xình trôi trên biển bên cạnh hòn Khoai. Sợ công an hay ghe
đánh cá nhận diện là ghe sông, tôi ra lệnh phá hết mui trên rồi lấy giây thừng
buột vòng mấy trụ cột làm chổ tựa để giử người khi gặp sóng lớn hay mưa to. Mấy
con cá chuồn nhỏ thấy ghe sát mặt biển tha hồ đùa, bay phóng qua phóng lại.
Ông
hai cho tôi biết là bể chén chận bét ống dầu máy số một, mà ống core đó ông
không có mua dự trử, nhưng hy vọng ông sẽ sửa được, cũng may máy không hư trong
lúc công an đang rượt bắt, còn bây giờ thì sợ bị ghe quốc doanh đánh cá hay tàu
tuần tiểu của công an. Ông hai lò mò mở sửa ông dầu chừng hơn một tiếng, rồi cã
ghe quá mừng khi máy ghe chạy tròn vòng trở lại. Tôi vội vàng lấy hướng đảo Thổ
Châu trực chỉ, biển vẫn yên sóng nhịp nhàng tôi lái theo lời anh Sơn đã dặn,
sóng chẻ 7/3 hoặc 6/4 chạy êm đềm, các đoàn cá heo cứ đua nhau chạy bên hông
ghe tôi đùa giởn, sóng vật một hồi, một số khách trong boong tàu thấy quá mệt,
tôi cho thay phiên lên trên boong hóng gió. Biển, trời quá rộng mênh mong toàn
nước với mây không thấy bóng một chiếc ghe hay tàu nào qua lại. Ghe chạy gần tới
tối mới thấy gần ngang đảo Thổ Châu khi qua khỏi đảo tôi thấy năm bảy chiếc tàu
ngoài khơi đèn sáng rực. Cả tàu mọi người mừng vui chui ra coi tưởng đâu là tàu
buôn của Mỹ. Tôi lấy ống dòm ra nhìn về hướng mấy chiếc tàu, thấy toàn “BÚA, LƯỞI
LIỀM” đặt trên nền màu đỏ cùng một đám lính thủy thủ đoàn đi qua lại trên tàu,
may thật nếu không chết máy tôi chạy ngang đây lúc còn trời sáng là cả ghe toi
mạng.
Đêm tối tôi chạy lòn vào kẻ 2 chiếc tàu nằm chính giửa, vài giờ sau ghe
tôi qua khỏi mấy chiếc tàu lớn của Liên Xô, tôi biết chắc chạy qua hết đêm là
ra tới Hải Phận Quốc Tế, vì đảo Thổ Châu là ngọn đảo cuối cùng. Trời thì quá tối
chiếc ghe tôi cứ tà tà lướt sóng, cũng may cả đêm không mưa và không gió lớn
nên sóng phập phòng độ khoảng cấp 2. Khi tới sáng nhìn nước đen mun như mực tôi
biết rằng đã thoát được nửa đường, nhìn trái, phải tôi chỉ mấy thằng em những kỳ
Cá Mập rải rác trong vùng ghe đang chạy, hoảng hồn cố chạy tránh xa nhưng làm
sao tôi tránh khỏi khi đó là vùng cá mập, chỉ cầu trời rồi cho ghe tôi chạy lướt
qua. Chạy tới trưa thấy nhiều lon Bia, Coca nổi trôi lều bều trên mặt biển. Cã
đám khách trên tàu la reo vui Hải Phận Quốc Tế đã tới rồi,ghe chạy suốt ngày tới
chiều tôi thấy đàng xa cuối chân biển một màu mây đen kịch, tôi định lại điểm đứng
thấy là mình đang nằm trong hải phận của Thái Lan. Ông hai chủ ghe bảo tôi ráng
tránh tàu Thai Lan vì nổi danh hải tặc, nên vừa thấy cột ghe Thái xuất hiện là
tôi bẽ hướng tránh tối đa, cũng có lúc gặp tàu buôn nhiều nước khác nhau như Thụy
Điển, Hòa Lan, Singapore.
Chúng tôi làm dấu hiệu “ SOS” hay đốt lửa khoát tay, nằm lăn ra cầu cứu, nhưng không tàu nào ngừng lại hay để ý
nhìn, khi còn ở nhà thì nghe đài radio
nói ghe vượt biên được tàu buôn vớt, đem về Thụy Sĩ hoặc Hòa Lan, mà khi chúng
tôi tới đây thì không thấy con tàu nào tới cứu. Tôi cũng nghe nói có vài dàn
khoan dầu dọc theo hải phận Thái, tôi để ý hoài cũng chẳng thấy bóng dáng nơi
đâu có chăng là mây với nước.
Trời
khuya dần, gió thổi mạnh tôi biết là triệu chứng xấu, hơn 2 ngày rồi tôi không
chợp mắt một chút nào, cố lèo lái cho ghe lướt qua những cơn sóng lớn, đít ghe
bầu tròn như lòng trứng vịt, không thể chẽ sóng nên tôi phải chiều theo sóng.
Trời hừng sáng thì gió to sóng lớn, mây đen kéo đến cả một bầu trời đen nghịt,
rồi những cuộn sóng quá cao đẩy ghe lên cao rồi đập xuống, tiếng khóc la của một
đám trẻ em, rồi đàn bà la hốt hoảng, ói mửa trong hầm tàu đầy ngập mùi hôi
thúi, mọi người trong ghe gần như là xác chết, nhưng cũng không ngớt lời cầu
nguyện, lớp người đạo chúa thì đọc kinh cầu Đức Mẹ, còn lại số kia thì niệm Phật
A Di Đà. Còn tôi theo đạo Phật, thờ Ông Bà, lớn lên học trường đạo, nên Phật
Chúa gì tôi cũng nguyện xin giúp đỡ, và dường như tôi luôn có người phù hộ, cứ
mỗi lần thập tử nhất sanh là mỗi lần ơn trên che chở.
Tội
nghiệp thằng Khoa, thằng Lộc thì phụ tôi kiềm tay lái, tôi cố gắng chỉ nó nhớ
đi sóng theo lời anh Sơn dặn 6/4 rồi tới 7/3, vật lộn với sóng gần hai ba tiếng,
nhiều lần ghe muốn bi lật ngang với những đợt sóng dồn đập liên hồi, quá mệt
mõi cùng những lo âu, sợ hãi vì đối đầu với sóng ngọn quá cao, nếu những đợt
sóng này liên tục vào lúc ban đêm thì ghe tôi cã đám, mọi người đã làm mồi cho
cá mập. Như một phép mầu. Chúa hay Phật đã nghe được lời khấn nguyện. Bổng từ
xa xuất hiện hướng trước mặt một đốm trắng bên phải, tôi đoán là tàu đánh cá
Thái. Tôi báo ông hai biết để cùng nhau quyết định, lúc biển êm thì bảo tôi phải
chạy làm sao tránh tối đa tàu Thái, lúc sóng vật một hồi thì tìm tàu Thái che
thân. Ông hai không suy nghỉ bảo tôi chạy tới tàu xin cầu cứu. Tôi đổi hướng lấy
điểm trắng ghe làm chuẩn rồi cho ghe mình chạy tới,khoảng một tiếng sau tôi mới
đến gần con tàu. Tôi hy vọng sẽ gặp tàu tuần duyên của Thái, nào ngờ đâu ghe
đánh cá Thái Lan, thấy ghe tôi chạy tới tàu Thái ngừng lại chờ để kiếm ăn, trên
tàu là một đoàn thủy thủ trẻ ở trần mặc toàn quần “xì-líp” với thân người rắn
chắc, đang chỉ chỏ vào ghe tôi không cho cập sát, có lẽ tụi Thái sợ nếu đám tôi
có súng nhảy lên cướp tàu. Nhưng sóng quá lớn đẩy mũi chiếc ghe tôi đập vào bên
hông tàu sắt Thái, nghe cái “RỐP” đầu mũi ghe chà dôm gãy nát, hộc nước ngọt dằng
mũi cho ghe chạy đầm khi bị sóng cũng bị
chảy hết ra ngoài. Tôi thấy tụi Thái ra dấu hiệu “quay vô lăng” muốn biết ghe
tôi ai là ngưởi lái. Cã đám người trên ghe chỉ thẳng vào tôi, rồi tụi nó muốn
đưa tôi qua bên đó nên kéo ghe tôi đến sát hông tàu. Tôi vừa phóng người lên
trên boong tàu Thái, thì ghe tôi bị thã trôi ra tuốt ngòai sau chừng 15 mét. Một
thủy thủ Thái móc cây dao mã tấu kê ngay vào cổ tôi, tay bên kia nó tướt lấy
chiếc đồng hồ tôi đang đeo trên tay trái, tôi nghĩ lúc này nếu tôi phản ứng
chóng lại có lẽ đầu tôi lìa cổ, và mọi người trên ghe tánh mạng khó an toàn, có
thễ bị cướp bóc, hãm hiếp, đánh đập rồi đâm bể tàu, hoặc nếu trên ghe có súng
thì tình hình trở nên đổi khác. Xong nó đẩy thẳng tôi vào trong phòng tên thuyền
trưởng và đóng xầm cửa lại.Trên ghe tôi, ông Hai cùng một số người la kêu cầu cứu
tôi bằng tiếng Việt.
-Đừng
giết nó, đừng giết nó, mấy ông Thái Lan ơi
Mấy
thằng thủy thủ Thái tụi nó chẳng hiểu gì khi nghe người trên ghe la lên bằng tiếng
Việt. Tôi bị đẩy vào trong phòng lái cho thuyền trưởng hỏi cung, tụi nó biết VN
rất ít người biết tiếng Thái nên dùng tiếng Anh để hỏi, tôi thì quờ quạng còn
thuyền trưởng Thái cũng chẳng rành, rồi hai thằng tôi cứ ú, ớ qua lại. Tôi thấy
hai thằng Thái đen đứng ngoài cầm mã tấu dài nửa thước canh chừng tôi phản ứng. Thuyền
trưởng Thái quát to “You VC, you VC?”
-No
VC, no VC, I am Vietnamese. tôi trả lời
-You
North VN?
-No,
no South VN tôi trả lời.
-You
Where? you where?
Rồi
nó chỉ vào tấm hải đồ đang nằm trải thẳng trong phòng lái, bên trên là cái hải
bàn to tướng. Nhìn thấy hải bàn của nó mặt kim chỉ Nam, Bắc nhẹ nhàng từ từ di
động mỗi khi có đợt sóng lớn đập vào tàu, còn hải bàn trên ghe tôi thì nó quay
như chong chóng, ghe lắc là kim quay một hồi mới nghỉ. Tôi hiểu ý nó hỏi nên vội
lấy tay chỉ vào nơi xuất phát cửa Hà Tiên và hướng Tây 270 độ tôi đi. Nó thử
tôi chỉ vào hải đồ cửa biển ngoài miền Bắc rồi chỉ vào tôi xem phản ứng ra sao.
Tôi cứ nhất định tôi ở miền Nam đưa tay chỉ vào chổ tôi vừa chỉ nó. Nói qua lại
dùng hết “Miệng rồi Tay” tôi mỏi mệt, nhìn lên trên góc trái thấy nó thờ hình
tượng Phật, tôi chỉ vào hình, rồi chỉ vào tôi, xong tôi chấp tay “lạy, xá xá”.
Nó nhìn tôi như hiểu ý tôi muốn nói gì, suy nghỉ một hồi, nó vẽ hình 2 chiếc ghe Lớn, Nhỏ, kéo móc nhau
chạy thẳng vào bờ. Rồi nó ra dấu hỏi tôi “tiền, đồng hồ, nhẫn, vàng, hột xoàn”
tưởng tôi không hiểu nó diển tả làm đủ cách. Rồi đưa giấy cho tôi viết mấy lời
kêu người trong ghe tôi đưa tiền, nử trang cho nó. Tôi viết một đoạn yêu cầu
khách trên ghe hãy vì sự sống nên đưa ra tiền, vàng, hột xoàn nếu có để được
Thái tụi nó kéo vào bờ.
Vừa
viết xong, thằng Thái đen lực lưởng bỏ thư tôi vào túi nylon quấn lại rồi lao
mình xuống biển trong lúc sóng lớn nhồi đập ầm ầm. Lúc đó chiếc ghe nhỏ của tôi
neo ngoài sau bị sóng cao dồn dập nhồi lên, nhồi xuống, cã đám người nằm la liệt
trên ghe chằng chịt cột nhau bằng những cuồn dây bố, vì sợ sóng nhồi văng ra
ngoài biển. Chưa đầy một phút tôi thấy nó trèo lên ghe tôi đưa tấm giấy. Ông
hai chủ ghe đọc lớn cho mọi người nghe lời kêu gọi, rồi ông lấy bao nylon bò đến
từng người gom góp cả ghe. Trong lúc ghe tôi đang góp tiền thì thuyền trưởng
cho áp tải tôi ra ngoài sau boong tàu chờ đợi, thằng Thái đen lấy cho tôi một bịch
mì gói, đang đói bụng tôi xé ra cắn, nhai nuốt ngon lành, cọng mì thái lúc đó
không hiểu sao tôi thấy hương vị thơm ngon, như chưa bao giờ tôi được ăn loại
mì nào ngon như thế. Một vài phút sau tên thái đen bên ghe tôi bơi trở lại cắn
trên miệng bị nylon tiền, nhảy lên tàu nó giao cho thuyền trưởng, thoáng nhìn
thấy bịch nylon chứa tiền dầy cộm, cả đám thủy thủ Thái tưởng tiền “ĐÔ LA” mừng
vui ra mặt, khi đổ ra chỉ thấy hình “BÁC GIÀ RÂU” với một số dây chuyền đồng hồ
đa số toàn đồ giả. Tên thuyền trưởng giận lên chưa từng thấy, gom hết đóng tiền
bỏ trở lại bịch nylon, đưa cho thằng thủy thủ đem đi trả. Liền lúc đó nó đạp
tôi văng xuống biển, lấy mã tấu nó chặt đứt sợi dây neo. Ông hai chủ ghe thấy
tôi bị đạp xuống biển, ra trước mũi ghe quì lạy bọn Thái trên tàu.
Sóng biển lớn đánh tôi nổi lên, rồi chìm xuống, lặn hụp một hồi tôi may
quá nắm được sợi dây thừng, mấy thằng em trên ghe kéo rút tôi vào đem lên ghe,
rồi tôi giải thích cã đám khách đi đều run sợ, bọn Thái có thể sẽ đâm bể tàu, hoặc cho sóng biển đập một hồi
cũng bể ghe, chưa kể là tụi nó bắt gái qua hãm hiếp.Nghe tôi nói thì vài ba cô
gái trẻ đẹp đang nằm như chết, vội chui vào hầm lấy nhớt máy trét lên đày mặt
mày và quần áo, nhưng tôi thấy cũng còn lộ nét trắng tươi. Thấy nói có lý bà
con bảo tôi ra ngoài kêu Thái Lan trở lại, tôi ra ngoài mũi ghe đứng đưa tay
ngoắc, còn ông hai thì vẫn còn quì trước ghe cầu nguyện. Ghe bị đánh trôi xa một
đoạn, chiếc
tàu Thái từ từ lùi lại tiến đến gần, một tên thái cắn bịt nylon lội quay trở lại,
rồi đưa cho tôi cái túi để gom tiền. Tới
lúc đó tôi thấy người Việt Nam thật tội, tại vì sao ra đến nổi nầy. Người thì
moi tiền từ trong gấu áo, kẻ xé quần lấy mấy chiếc nhẫn đưa ra, trong quần xì
líp, trong áo xú chen tất cã đều đem ra
bỏ bịch, gom tổng cộng với tiền Đô La chừng vài ba lượng vàng. Tôi cột lại đưa
cho thằng Thái đen lội về cho tên thuyền trưởng. Bọn nó đổ ra đếm, dường như là
ăn đồng chia đủ, rồi lấy dây neo thả cột ghe tôi vào, chờ đêm xuống mới bắt đầu
kéo, nó không dám kéo ban ngày sợ tàu tuần tiểu Thái Lan và Liên Hiệp Quốc.
Lúc
trên tàu Thái tôi hỏi vị tri của ghe tôi trên biển, thuyền trưởng có chỉ tôi rồi
ra dấu thêm một ngày nửa là ghe tôi sẽ đụng tới bờ. Như vậy thì tôi lái ghe đi
cũng gần chính xác, cũng thật không ngờ tôi là tài công 4 chử TQLC cũng đưa được
ghe ra tới chốn này. Chúng tôi nằm chịu sóng nhồi hơn 6 tiếng đòng hồ, từ hơn
10 giờ sáng đến gần 5 giờ. Biển lúc chiều dịu lại, tàu Thái Lan bắt đầu nhổ neo
chạy, kéo thêm ghe tôi không nổ máy mà chân vịt quay ào ào, chiếc chà dôm lướt
như bay trên mặt biển, rất nguy hiểm nếu gặp luồng sóng lớn, tôi lúc này cứ phó
cho số mệnh, để đám Thái lôi còn hy vọng được tới bờ, còn không sóng lớn đánh một
hồi thì ghe chìm lĩm. Trời ngoài biển bây giờ tối đen như mực, tới gần 12 giờ
đêm ghe tôi bị đức dây kéo, chúng tôi kêu la inh ỏi giửa đêm khuya, chắc máy
tàu Thái Lan nổ lớn không nghe nó đành chạy tuốt, bỏ lại ghe chúng tôi giửa đêm
khuya lững lờ nhấp nhô trên biển, đang suy nghỉ tìm định lại hướng đi thì lúc đó nó quay tàu lại, rọi đèn pha để tìm.
Thấy đèn pha kiếm chúng tôi la lên tiếp, đám Thái nghe la lái tàu chạy tới, nối
cột dây trở lại, lần này tàu kéo chậm lại có lẽ tụi nó biết chạy nhanh qua dây
thừng ghe tôi không chịụ nổi, và cũng không cho ghe tôi nhảy sóng quá cao. Tới
khoảng 2 giờ sáng tôi thấy những giải đèn vàng mập mờ xuất hiện, nó kéo thêm một
đoạn xa khi nhìn thấy rỏ hàng đèn. Rồi nó ngừng lại kêu tôi ra chỉ hướng đó bảo
ghe tôi chạy thẳng tới, thấy còn xa nên tôi ra dấu là ghe hết chạy được rồi.
Tên thuyền trưởng ra dấu tay sẽ bị còng khi police thấy, xong nó thảy qua 2,3
thùng mì gói, thấy lòng nhân đạo nên vài người trên ghe tôi móc đưa thêm cho nó
một hai chỉ vàng. Rồi tàu nó nổ lớn máy phóng đi mất dạng. Quá may mắn cho
chúng tôi gặp bọn Thái lấy tiền nhưng người còn có lương tâm làm điều không xấu.
Tôi bảo thằng Khoa, thằng Lộc vào tát nước dưới chân máy, rồi đề máy cho
tôi lái chạy vào hàng đèn vàng trước mặt, lu bu một hồi sóng đánh trôi ghe mất
dấu khu vực có nhiều đèn, thấy tưởng gần nhưng ghe tôi phải lái hơn một tiếng.
Gần tới sáng khoảng 4 giờ ghe tôi đụng gần bờ biển, tôi muốn thã neo cho ghe nằm
ngoài hóc núi, khi tới sáng, quan sát rồi hảy chạy vào bờ. Ông hai bảo tôi cứ
kiếm chổ trống cho ghe tới bờ cho chắc.Nghe lời ông hai tôi chạy tiếp, thấy
đàng trước có bãi trống tôi xỉa mũi chui vào, đêm tối quá tôi không thấy được bờ
biển, thì đùng một cái đợt sóng lớn đánh chiếc ghe văng lên trên bờ biển cát.
Lúc đó tôi không định được vị trí ghe mình là ở nơi nào, sợ ăn cướp nên tôi kêu
hết đám thanh niên trên ghe xuống đảy ghe trở ra biển. Tôi đếm được có mười mấy
thằng, còn bao nhiêu lại là con gái, đàn bà, con nít. Rồi cả đám đẩy ghe trở xuống
nước, lừa khi sóng đập vào tôi kéo số de, được vài ba đợt sóng chiếc ghe lùi ra
trở lại, tôi chạy lùi ra xa bãi cát, rồi ra ngoài một góc eo nhỏ, bỏ neo ngủ chờ
trời sáng sẽ định tiếp hướng đi. Vừa chợp mắt khoảng một tiếng đồng hồ thì trời
hừng sáng, dân trong làng Thái thấy ghe lạ thì họ biết chắc là ghe của VN. Bốn,
năm chiếc xuồng nhỏ chèo phóng ra ăn cướp, thấy cầm dao tôi bảo thằng Lộc chặt
bỏ neo, thằng Khoa đề máy sang số de xong tôi chạy tuốt ra ngoài khơi, chạy tới,
chạy lui dọc bờ biển tìm chổ đông người,để cho ghe vào xin tỵ nạn nhưng không
thấy chổ nào là đông đúc, mấy chiếc ghe con canh ghe tôi từng chút. Gần 9 giờ
sáng tôi chạy vòng lại nơi khoảng trống mà lúc khuya ghe tôi bị sóng đánh văng
lên cát. Chợt thấy một số người dường như không là dân Thái thêm mấy chiếc bườm
xanh, đỏ đang kéo ra. Tôi
lấy ống dòm nhìn thật kỷ, đúng là dân du khách nước ngoài. Tôi lấy lái chạy thẳng
vào trong bãi, cã đám Tây hốt hoảng chạy lên bờ, tôi thấy vậy quẹo ghe qua bên
trái cách xa chổ bãi tấm chừng gần 100 mét. Rồi la lệnh tất cã bỏ ghe nhảy xuống
biển lội lên bờ.
Một
đám dân cướp cạn, xỉa dao lấy đồng hồ, mò khám xét rồi nhào lên ghe lục soát tứ
tung, thấy ông hai ôm cái hộp vuông không nhỏ, tụi Thái dựt lấy, và mở ra thấy
vài cục đất khô, và nó tưởng ông giấu hột xoàn nằm trong đó, đưa vào miệng cắn
nát mấy cục đất đen. Đất bể nát tụi nó không thấy gì trong đó, tức giận cứng
người nó quăng luôn cái hộp xuống biển một cái đùng, tôi hỏi ông hai có cái gì
trong đó. Ổng trả lời:
-Mấy
cục đất sét của VN tao đem theo và cầu nguyện khi tới nơi tao cúng rồi quăng trở
lại biển cho quê hương mình. Giờ thì tụi nó cắn nát cũng kể như tao đã cúng.
Lục
xét xong, đám Thái ăn cướp lấy ghe ông hai phóng chạy mất khi thấy mấy người du
khách ngoại quốc tới, không có người Mỹ, toàn là dân Tây. Trong số đó có một
người Tây bảo chúng tôi cho biết bao nhiêu người, để ông đi bộ ra đồn cảnh sát
báo. Lúc này tôi mới biết được ghe tôi tổng số có 34 người, đi trên chiếc chà
dômdài 10 mét trải qua cuộc hành trinh dài 3 ngày 4 đêm từ cửa Hà Tiên VN đến đảo
Sa Mui, Thái Lan ngày 3-11-1980.
Vài
tiếng sau cảnh sát tới nơi dẫn bộ chúng tôi về đồn lập thủ tục, sau 3 tuần lưu
lại nơi đảo “SA MUI” chúng tôi được đưa về trai ti nạn “Songkhla” Thái Lan ngày
25-11-1980.
Tôi
biết chắc mình đã sống và đến bờ tự do. Một buổi chiều, lang thang trên bờ biển
Songklha, lòng tôi chạnh nhớ quê nhà, rồi ghi vội vài dòng thư cho bạn mình vào
trong nhật ký.
Nhiều
lúc tôi đứng trên bờ biển Thái,
Hướng
nhìn về bên kia vùng bờ biển nướcViệt Nam.
Thương
cho những bạn tù của tôi đang còn vác cuốc.
Ngày
như đêm không biết được tương lai.
Tôi
thật may mắn đứng bên nay vùng đất tạm.
Rồi
mai đây tôi sẽ đến được nước thứ ba.
Tôi
mong các bạn được một ngày sớm thả.
Tìm
đến nơi đây hít thở không khí tự do.
Được
sống tạm ở trại Songkhla một thởi gian gần ba tháng, thủ tục giấy tờ xong tôi
được chuyển đến trại GalangII, Indonesia. Rồi đến Mỹ ngày 4 tháng 8, 1981 theo
diện Sponsor chùa tới vùng Long Beach rồi San Jose là nơi tôi tá túc đến hôm
nay.
Hơn 32 năm kể từ khi tôi thoát khỏi cảnh lao tù CS. Giờ đây ngồi ôn lại
những gì còn trong ký ức. Thương cho những bạn tôi đã chết nơi lao tù, hay chiến
trường khi còn quá trẻ. Tuổi ngây thơ
trong đất nước chiến tranh. Tôi được may mắn cũng nhờ ơn trên phù hộ, thoát qua
khỏi nhiều lần gian nguy, hiểm trở: vượt trại lao tù, trốn vượt biên và may mắn
trong lần vượt biển. Rồi tới đất Mỹ với hai bàn tay trắng, tưởng rằng đâu tôi
chỉ biết có “Bóp Cò” Đã trãi qua rất nhiều năm cực khổ: cắt cỏ, bỏ báo, hái dâu
và đồng thời đi học vài ba năm tôi làm được job technician, thấy thích thú tôi
lò mò học tiếp cuối cùng thì tôi cũng làm được kỷ sư trong nghành Networking.
Cám ơn nước Mỹ thật nhiều đã cho tôi cơ hội, nên đã đền đáp được những tấm chân
tình của hầu hết những ân nhân, gia đình và bạn bè đã giúp đở tôi trong hoàn cảnh
khốn cùng. Cám ơn bà mẹ nuôi “Phan Thi Hồng Hoa” đã cho tôi chổ ở, cơ hội cùng
tất cã mấy đứa em: Phục, Phú, Phong, Phấn đã che giấu và giúp đở tôi trong lúc
trốn tránh lao tù. Tôi không gặp lại ông hai kể từ khi qua Mỹ, nếu giờ này còn
sống ông đã quá 90. Đã hơn 30 năm nhận nơi đây làm quê hương thứ hai để sống. Giờ
đây hai đứa con tôi đã ra trường và đi làm việc.
Tôi
dự tính sẽ về hưu sớm trong vòng hai năm tới. Một lần nửa cám ơn tất cã bạn bè,
ân nhân đã giúp đở và cho tôi cơ hội.
Once again “THANK YOU AMERICA.”
Khỏe
Trần (60) Engineer, Nghiêm Trương (59)
Prudential Insurance Agent, Retired 2009, Thiện
Lê (40) Engineer, Dana N. Trần (36) Attorney at Law,
Athyna
Lê &Taylor Lê (7) Second grade, John
Trần (28) Engineer